Chúa Giêsu đi giảng khắp nơi, từ thành này sang thành nọ. Hôm ấy Ngài cùng môn đệ và dân chúng đến Naim, một thị trấn nhỏ ở phía Nam Nazareth. Lúc gần tới cửa thành thì gặp một đám ma. Đó là đám một chàng thanh niên mới mất. Cậu là con của một bà kia. Bà góa chồng từ lâu. Bà đặt tất cả hy vọng vào con một, nhưng con một cũng mất nữa, lòng bà đau như xé. Số phận bà khổ quá. Nên cả thị trấn đều cảm thương và nhiều người đến an ủi và giúp đỡ bà trong việc mai táng. Người ta định sẽ táng xác con của bà
trong huyệt nhỏ đã đào ở chân đồi kia….
Đám tang ra khỏi cổng thành. Xác chàng thanh niên để trong quan tài đặt trên cái giá rỗng, một nhóm thân thuộc và bằng hữu khiêng. Theo sau có mấy người khóc mướn, kể lể bi ai, không ngớt ca tụng người đã mất. Tiếp đến bà mẹ, điệu bộ rũ rượi sầu phiền, khóc sướt mướt tựa người không còn lẽ sống. Gặp đám tang, dân chúng và môn đệ đứng lại, cung kính đợi cho đám xác đi qua. Còn Chúa thấy bà mẹ sầu phiền. Ngài cảm động, thương tình quá. Ngài nhìn cách hiền từ và ủi an Thôi đừng khóc nữa Ngài tiến lên mấy bước, đặt tay vào giá khiêng. Những người khiêng dừng lại. Ngài nhìn chiếc săng người thanh niên, lòng càng xúc động bồi hồi. Nhưng Ngài lại chấn tỉnh ngày và phán:
-Hỡi con ! Ta muốn con chỗi dậy.
Bỗng người thanh niên chỗi dậy ngay và bắt đầu nói….
Còn Chúa Giêsu với một cử chỉ đáng yêu và mỉm cười nhân từ, Ngài trả người thanh niên cho bà mẹ. Bà ôm chặt lấy con mừng bỡ ngỡ. Dân chúng đứng đó cũng bỡ ngỡ và sợ: Một xác chết sống lại ư ?!… Nhưng rồi từ kinh sợ đã chuyển sang vui sướng, dân chúng lớn tiếng hoan hô chúc tụng Chúa Trời. Họ tin rằng Ngài đã làm chỗi dậy một tiên tri lớn để cứu chữa dân… Mấy ngày sau, việc lạ đó đồn đi khắp các miền chung quanh, tới cả xứ Giuđêa nữa.
Lần khác, Chúa xuống thuyền qua hồ Tibêrát trở về Caphanaum.Vừa lên bến, Ngài gặp một viên giảng đường trưởng tên là Giarô, mặt sầu muộn như người đang lo mất của quý. Ông này đến sấp mình dưới chân Chúa và kêu van:
-Lạy Thầy ! Con gái nhỏ tôi chết mất !.. Có lẽ chết bây giờ chăng ?… Xin Thầy thương đến đặt tay trên đầu nó để nó sống, Thầy cứu nó với…
Em bé đó là con một của ông, mới 12 tuổi. Ông yêu quý hơn vàng, nhưng càng quý thì càng thương, vì em sắp mất. Nỗi thương buồn lộ ra cả trong cử chỉ lẫn lời kêu xin, làm Chúa cảm động và đi ngay….
Hôm ấy dân chúng theo Ngài đông quá, người ta xô nhau, chen nhau vướng cả bước chân Ngài. Giữa lúc lộn xộn đó, một bà kia lên phía đàng sau, tới đụng vào gấu áo của Ngài. Đó là một người đàn bà đã bị mắc bệnh băng huyết mười hai năm, đau đớn lắm !
Bà đã tìm nhiều thầy, uống nhiều thuốc, nhưng chẳng thấy khá hơn, chỉ thấy mỗi ngày gia tài mỗi khánh kiệt. Bà nghĩ thầm, nếu tôi chỉ được đụng tới gấu áo của Ngài thôi, tôi cũng được khỏi, vì Ngài có phép nhiệm chữa mọi người bệnh tật, hẳn áo Ngài cũng có một sức nhiệm không sai. Vậy bà tìm cách động tới áo Ngài và bà cho đó là thượng sách. Sở dĩ bà không dám thú bệnh với Chúa một cách công khai, là vì người ta sẽ dựa vào Luật coi bà là người nhơ và tránh lánh, cũng như người ta vẫn coi bệnh đó là dấu hiệu một đời sống hư hèn, đáng khinh dể. Và đúng thay ! Vừa đụng tới áo Chúa, bà liền được khỏi. Bệnh băng huyết cầm lại ngay, bà cảm thấy trong mình đã khỏi dứt…
Nhưng ơn lạ không dấu kín được. Chúa không phải cái máy làm phép lạ, để hễ người ta đụng vào, là phép lạ hiện ra đâu. Chúa đã biết ai đụng vào Ngài. Chúa đã có ý thức và ưng thuận để một nhiệm lực của Ngài truyền ra. Nhưng Ngài không muốn bà kia lầm tưởng rằng người ta có thể lợi dụng Ngài, gán cho áo Ngài có một sức phù pháp như đôi khi người ta gán cho vật nọ vật kia, vì như vậy là dị đoan, mà dị đoan đâu phải là tôn giáo. Không, người ta phải tin vào Chúa, chứ đừng tin vào đồ vật. Đồ vật chỉ là trung gian Chúa dùng để ban ơn thôi. Vậy phải quy hướng ơn lạ về Chúa hơn về đồ vật.
Ngài quay lại hỏi một cách bâng quơ:
-Ai đụng vào Ta áo ta thế ?
Ai ai cũng chối…Không ai biết ai đã đụng vào áo của Ngài cả. Ông Phêrô, một trong số các môn đệ ở gần Ngài thưa:
-Bẩm Thầy, dân chúng chen lấn nhau xô đụng vào áo Thầy từ phía mà Thầy hỏi Ai đụng vào áo Thầy đó
-Phải, Ngài nói, có kẻ đụng vào Ta thực, và Ta đã để một nhiệm lực của Ta truyền ra.
Thấy việc mình đã bị lộ, bà kia run rẩy đến sấp mình dưới chân Chúa, thú nhận trước mặt dân, tại sao mình đã đụng vào Ngài, và thoát chốc đã được khỏi…
Bà chưa dứt lời, Chúa đã phán:
-Thôi, con cứ yên tâm. Con tin, nên con được khỏi, con hãy về nhà.
Chúa đang phán, thì người nhà của ông Giarô đến bảo ông:
-Tôi ân hận đưa tin: Con của ông đã mất rồi, Ông không nên phiền Ngài nữa
Nét mặt ông Giarô đang hồng hào bỗng đổi hẳn. Ông thẩn thờ hầu như mọi hy vọng đã tan biến. Lúc nãy, thấy phép lạ chữa bà kia, ông đã tin tưởng lắm. Ông đã mong Thầy chóng đến nhà chữa cho con ông. Nhưng ôi !..bây giờ nó còn thở đâu mà trông phép lạ nữa. Ông đau khổ quá, đôi mắt ướt lệ của ông như báo hiệu những tiếng nấc nở vì thương buồn. Chúa cảm động, Ngài an ủi ông:
-Ông cứ tin tưởng, đừng sợ. Chúng ta đi, con ông sẽ được sống.
Nhưng con gái ông Giarô đã chết thật và người ta đang sửa soạn đem chôn. Nhà ông chật ních những người thân thuộc, bằng hữu đến phân ưu. Bên cạnh giường để xác, mấy người khóc mướn, tiếng khóc pha lẫn tiếng kèn tiếng trống và những tiếng nhạc cụ bằng đồng, làm không khí trong nhà nhộn nhịp, bi đát…Giữa lúc đó, Chúa đã tới nhà ông Giarô. Ngài phán:
-Thôi đừng nhộn nhịp, đừng kêu la khóc lóc nữa. Em bé không có chết đâu. Nó chỉ ngủ thôi.
Những người ở đấy phì cười. Họ mỉa mai; Ngài vừa đến, Ngài biết sao được. Em nó chết thật rồi, chứ ngủ đâu… Họ không ngờ rằng Ngài sẽ làm cái chết của em bé vắn lại như một giấc ngủ.
Nghiêm nét mặt, Ngài truyền cho mọi người ra khỏi nhà, chỉ cho phép ba môn đệ là Phêrô, Giacôbê, Gioan và cha mẹ của em bé vào phòng để xác thôi. Không khí nặng nề khó thở. Xác em bé nằm yên lặng đáng thương. Ngài tiến lại gần, cầm tay em bé và hô lớn Talitha Cumi nghĩa là Hỡi con, hãy chỗi dậy tức thì em bé mở mắt, động môi, hai má hồng đỏ, thở và chỗi dậy ngay, bước xuống đi lại nữa.
Phép lạ làm cho cha mẹ em bé kinh ngạc khiếp sợ quá, đứng dựng người như hai chiếc cột. Nhưng rồi tiếng trong trẻo dễ yêu của Chúa đã phá tan bầu không khí khiếp sợ, hai ông bà chỉ còn sướng dạ mừng vui. Chúa truyền đem của ăn cho em bé và dặn đừng phao tin đồn phép lạ ra. Nhưng uổng cả. Mọi người trong nhà đã đều biết phép lạ, và chính những người mỉa mai lúc trước càng kính phục và quảng cáo phép lạ đó cách hăng nồng hơn. Vì thế, tiếng đồn về em bé được sống lại đã lan mau ra trong cả nước.