Nghe Chúa giảng người giàu khó được cứu rỗi, tụi Biệt Phái cười khảy và miệt thị Ngài. Là những người đam mê của cải, họ vẫn quan niệm rằng: Tiền tài, sức khỏe, sống lâu và số may trên đời là những phần thưởng của thánh thiện, những phần thưởng quý giá Đấng Giavê dành cho những người thân nghĩa của Ngài. Bởi thế họ đã coi thường lời Chúa giảng và chế nhạo: Ừ ! cứ để cho ông ta nói cho sướng miệng….Giả thử là người giàu, hẳn ông đã ca tụng lớp người phú quý, nhưng ông ta nghèo, một đồng xu không dính túi ! Mà nghèo, nên mạt sát người giàu, cái đó có lạ chi. Cái đó chỉ chứng tỏ ông ta không phải là thân nhân của Thượng Đế, nên đã bị Thượng Đế đày vào cái số kiếp không tiền.
Nhưng bọn Biệt Phái đã lầm một cách khốc hại, đành rằng tiền tài sức khỏe sống lâu và số may trên đời là những ơn lành của Chúa. Nhưng không phải mọi người thánh thiện đều được hưởng những ơn lành ấy đâu. Cũng có những người lành phải chịu khổ cực ở đời, và cũng có những người tội lỗi, những kẻ giả hình nhân đức được giàu sang. Vì thế Chúa mắng lại tụi Biệt Phái:
-Các người dám tự phụ là thánh thiện trước mặt người ta ư ? Thiên Chúa đã biết thâm tâm của các người. Ngài tởm gớm vì thấy các người kiêu hãnh….
Rồi Chúa kể một dụ ngôn, ngụ ý bảo cho họ biết: Những người giàu ích kỷ, chỉ biết hưởng một mình, không nghĩ đến người nghèo khổ chung quanh và không biết lo đến việc linh hồn, sau này sẽ bị trọng phạt trong ngục lửa ! Ngài kể:
-Xưa có một người đại phú quen mặc áo vải gai bóng nhẵn và khoác áo vóc màu hồng, thích xa hoa, thường nhật dùng những cao lương mĩ vị. Trong khi đó, ở cổng nhà ông có một người hành khất tên là Lagiarô. Người này mình mẩy đầy ung nhọt, nằm kêu rên và khao khát được có những thứ ở trên bàn người đại phú kia rơi xuống để mà ăn cho đỡ đói, nhưng chẳng ai cho, và chẳng ai nhìn đến, chỉ trừ mấy con chó đến ngửi hơi và liếm qua mụt nhọt.
Nhưng rồi thời gian qua, người hành khất nghèo khó tắt thở và được các thiên thần đón lên trời đặt bên cạnh ông Abraham. Đến lượt người đại phú kia cũng chết. Xác ông được người ta mai táng linh đình, nhưng hồn ông rơi xuống hỏa ngục. Trong hỏa ngục này, người đại phú chịu phạt cực khổ lắm. Một lần kia, đang lúc chịu cực hình, người đó ngửa mặt lên trông thấy ở tận đàng xa, ông Abraham đang hưởng hạnh phúc và ở cạnh ông có cả Lagiarô nữa. Bấy giờ người đó kêu lên rằng:
-Lạy tổ phụ Abraham, xin thương đến tôi, xin sai ông Lagiarô thấm đầu ngón tay vào nước, để nhỏ xuống làm mát lưỡi tôi một chút, vì tôi chịu khổ trong lúc này đến cực độ rồi !
Nhưng ông Abraham đáp lại:
-Ớ con, con hãy nhớ rằng trong đời con, con đã được của cải, còn Lagiarô đã phải khổ cực luôn luôn. Bây giờ Lagiarô được an ủi ở đây và con phải chịu cực là phải lẽ lắm rồi. Vã nữa, giữa chúng ta và con còn cách nhau một vực sâu rộng lớn không thể nào vượt qua được….
Bấy giờ người đại phú kêu rằng
-Lạy tổ phụ Abraham, vậy xin Ngài hãy sai ông Lagiarô về nhà tôi để dạy bảo cho năm anh em tôi khỏi phải sa xuống chốn cực hình này.
Nhưng ông Abraham lại trả lời:
-Không ! Chúng đã có luật ông Môi Sen và lời dạy của các tiên tri, chúng chỉ phải nghe lời các vị ấy.
Người đại phú thưa lại:
-Không ! Lạy tổ phụ Abraham. Nhưng nếu có người chết về nói với chúng, chúng mới tin và chịu cải thiện đời sống, mới hối lỗi ăn năn.
Ông Abraham trả lời lại:
-Nếu chúng chẳng nghe ông Môi Sen và các tiên tri, ắt chúng cũng chẳng nghe người chết sống lại.
Với bài dụ ngôn trên đây, quả Chúa đã dạy rõ rệt về sự khẩn thiết phải giúp đỡ người nghèo và về đức công bình của Chúa đối với người lành và người dữ. Đức công bình tỏ ra quyết liệt, nhất là ở thế giới bên kia. Chúa dạy dụ ngôn này, mục đích để cho Biệt Phái suy nghĩ và tìm ra ở đó một bài học, một con đường hối cải, ngõ hầu được nhờ ơn cứu rỗi Ngài mang đến. Nhưng ngược lại, càng ngày Biệt Phái càng ghét Chúa và sau cùng đã cố tình diệt Ngài cho xong.
(Hơn nữa câu chuyện dụ ngôn Chúa kể trên, cũng là để cảnh tỉnh những người giàu có mà hay thờ ơ
trước những kẻ nghèo khổ cần phải được giúp đỡ. )