Bấy giờ đang là tuần lễ Thánh Hiến Đền Thờ, thành Thánh Jêrusalem tưng bừng không kém gì dịp lễ Trại. Tuy nhiên cuộc đàn áp đẫm máu hôm trước đã làm cho dân phải suy nghĩ nhiều. Hôm ấy thời tiết lại sang Đông, từng cơn gió lạnh đến làm vơi sự náo nhiệt bên ngoài….Lòng dân mơ ước một vị Cứu Thế, nhưng là một vị Cứu Thế biết xử dụng cung tên, giơ cao thanh kiếm để báo thù và thống trị.
Ngày hôm ấy Chúa cũng lên dự lễ ở thánh đường, Ngài bách bộ dưới trụ quan Salomon
Dân chúng xúm đến quanh Ngài như để tìm một lời an ủi. Nhưng một số những địch thù của Ngài lại muốn lợi dụng, hỏi Ngài rằng:
-Thưa Thầy, Thầy còn để lòng trí chúng tôi phải thắc mắc cho đến bao giờ ? Nếu Thầy là Đấng KiTô, là Đấng Cứu Thế, thì xin nói công khai cho chúng tôi biết ?
Bọn đối phương muốn giương bẫy bắt Chúa, họ nghĩ rằng: Nếu Ngài xưng mình là Cứu Thế, là bị báo thù và thống trị, hẳn Ngài sẽ bị La Mã hành tội. Trái lại nếu Ngài chối Ngài thì sẽ buộc vào tội đánh lừa dân. Nhưng biết rõ ác ý của họ, Chúa không trả lời thẳng vào câu hỏi. Ngài chỉ nhân dịp đó tuyên bố một chân lý hệ trọng, để những linh hồn ngay thẳng biết rõ Ngài là ai. Ngài phán:
-Ta đã nói với các người rồi mà các người có muốn tin đâu ? Những việc Ta làm nhân danh Cha Ta, đã làm chứng về Ta đủ lắm. Nhưng các người không tin, vì các người không thuộc về đoàn chiên của Ta. Các chiên của Ta nhận biết tiếng Ta và theo Ta. Đối lại Ta cũng nhận biết chúng và bảo đảm cho chúng một đời sống vĩnh cửu. Ta sẽ chẳng để chúng phải chết đời đời, và chẳng ai có thể cướp được chúng khỏi tay Ta. Quyền Cha Ta đã ban cho Ta rất trọng đại, và chẳng ai cướp được quyền đó khỏi tay Cha Ta, Cha Ta và Ta, Chúng Ta là một.
Chúa phán tới đây, bọn Biệt Phái nhao nhao phản đối và một số dân chúng cũng hùa theo. Họ cho là Ngài phạm tội lộng ngôn, dám xưng mình bằng Thiên Chúa. Họ nhặt đá toan ném Ngài, nhưng họ dọa nhiều hơn là dám bạo động. Phần Chúa, Ngài đứng yên không chạy. Ánh mắt uy nghi của Ngài làm thái độ hỗn xược của họ bị chặn đứng lại. Rồi Ngài hiên ngang hỏi họ:
-Ta đã làm biết bao việc lạ để chứng tỏ cho các người, vì lòng đại lượng của Cha Ta, thế việc gì các người muốn ném đá Ta.
Họ đáp lại:
-Không phải vì một việc lạ mà chúng tôi định ném đá ông, nhưng chỉ vì ông dám lộng ngôn, ông là người mà dám xưng mình là Thiên Chúa !
Để bác bẻ họ đã buộc cho Ngài phạm tội lộng ngôn. Chúa trưng lời của Thánh vịnh 81
và giải thích:
-Trong Thánh vịnh có lời chép về những thẩm phán rằng: Ta đã nói: Các người là những vị Chúa tể. Vậy nếu Thánh Kinh đã gọi những người được Thiên Chúa dạy, là những vị Chúa tể (mà Thánh Kính không thể sai)thì tại sao các người có thể buộc tội lộng ngôn chính người Thiên Chúa đã thánh hóa và sai xuống trần, chính người làm Khâm sai Thiên Chúa và dám nói: Ta là Con Thiên Chúa ? Các người hãy xét lại coi, các người hãy nghị luận hợp lý.
Trước lời phản bác hợp lý của Chúa, bọn đối phương cụt hứng. Họ tức giận nhưng không tìm ra lẽ để chữa thẹn.
Còn dân, dân nhiệt liệt hoan nghênh Chúa và tỏ lòng ngưỡng mộ. Cử chỉ đó làm Chúa lại cảm thương số phận của họ, họ giống như đoàn chiên không người chăn; hay người chăn là những kẻ làm thuê, chỉ biết đến tiền công hơn là lo cho bầy chiên được ấm no yên ổn. Bởi thế, nhân dịp này Chúa lại nói rõ Ngài là vị chăn chiên đích thực, một vị chăn chiên nhân lành, biết hy sinh tính mạng vì con chiên. Ngài phán:
-Ta là người chăn chiên đích thực và nhân lành, người chăn chiên nhân lành phải biết hy sinh tính mạng vì con chiên, còn những kẻ làm thuê không phải là người chăn chiên đích thực. Đoàn chiên không thuộc về họ, nên vừa thấy sói rừng đến, họ bỏ đoàn chiên và trốn chạy. Vì thế sói rừng xông vào đoàn chiên, cắn chết con này, mang con kia đi, làm đoàn chiên tan tác. Những kẻ chăn chiên kia bất lương là thế, vì chúng là kẻ làm thuê, chúng chẳng lo gì đến đoàn chiên cả. Nhưng Ta, Ta là người chăn chiên nhân lành. Ta biết đoàn chiên của Ta từng con một, và chúng cũng nhận biết Ta, sự nhận biết đó giống như sự Cha Ta nhận biết Ta và Ta nhận biết Cha Ta. Vì thế, Ta sẵn sàng thí mạng sống cho đoàn chiên Ta. Ta yêu đoàn chiên của Ta lắm, và Ta biết còn nhiều con chiên vẫn còn ở ngoài bầy. Những chiên ấy, rồi đây Ta phải đưa về để chúng nhận biết Ta, và bấy giờ sẽ chỉ có một bầy chiên với một Chúa chiên thôi. (Chúa ngụ ý nói, Ngài sẽ đưa cả thế giới về với Đức Chúa Cha, để làm thành một đoàn chiên vĩ đại là Giáo Hội.)
Nhân nói đến chức vụ và bổn phận người chăn chiên, Chúa lại nhớ đến thái độ ngoan cố của Biệt Phái và Luật sĩ. Họ không coi sóc đám dân lành Chúa trao cho họ, mà họ còn cản trở dân đến với Ngài là con đường sống. Nên Chúa lại nói rõ, Ngài là cửa chuồng chiên, để ngầm bảo dân, Ngài là con đường sống, con đường hạnh phúc, và bọn đối phương là kẻ trộm. Ngài phán tiếp:
-Quả thực, Ta bảo các người, Ta là cửa chuồng chiên. Những kẻ đã đến trước chỉ là kẻ trộm kẻ cướp. Phải ! Những kẻ không qua cửa mà vào, song nhảy tường hay lẫn lối khác mà vào, những kẻ ấy đúng là kẻ trộm kẻ cướp. Trái lại, người cứ cửa mà vào, đó là người chăn chiên, và người giữ cửa sẽ mở cửa cho người đó. Người đó sẽ lần lượt gọi chiên từng con một ra ngoài, và đoàn chiên nhận biết tiếng người chăn chiên, sẽ theo người đó. Trái lại, đoàn chiên sẽ không theo người lạ mà còn trốn chạy nữa, vì chúng không nhận biết tiếng người ấy.
Chúa nhấn mạnh nữa:
-Quả thực, Ta là cửa. Người chăn chiên nào qua Ta mà vào chuồng chiên, người đó sẽ được bình an, và lúc ra với đoàn chiên, sẽ tìm thấy đồng cỏ tốt. Ngược lại, những kẻ không qua Ta mà vào, chúng chỉ là kẻ trộm. Chúng đến có ý lấy trộm và hủy diệt đoàn chiên. Nhưng chúng hãy ý tứ !….
-Ta bảo thật, Ta đến để ban sự sống cho con chiên Ta và ban cho dư dật. Phải ! Nếu Cha Ta yêu Ta, ấy là vì Ta sẵn sàng hy sinh mạng sống vì đoàn chiên Ta. Nhưng Ta hy sinh rồi thu hồi lại, vì chẳng ai cướp được mạng sống khỏi Ta. Chính Ta tự ý hy sinh và tự ý lấy lại, vì Ta có quyền như thế và đó cũng là mệnh lệnh Ta nhận nơi Cha Ta.
-Hỡi các người, các người hãy nhận xét và hiểu lời Ta. Hay nếu không thể hiểu lời Ta, các người hãy phán đoán theo việc Ta làm. Nếu Ta không làm việc của Cha Ta, các người đừng tin Ta. Nhưng nếu Ta đã làm ấy là vì Ta có quyền làm, và do vậy, các người có thể nhận định rằng: Cha ở trong Ta và Ta ở trong Cha.
Nghe tới đây, bọn đối phương hiểu rõ Chúa muốn mạt sát họ, và thêm một lần nữa, Ngài xưng mình đồng bản thể với Thiên Chúa. Họ tức khí, định bắt Ngài, nhưng Ngài đã thoát khỏi tay họ.