Nghe Chúa nói đến ngày người đạo đức sống lại, một người trong bàn tiệc nghĩ đến hạnh phúc vĩ đại của Nước Trời. Ông liền kêu lên như biểu lộ ước nguyện vào nước đó:
-Ôi hạnh phúc thay người sẽ được dự tiệc trong Nước Đức Chúa Trời !
Chúa thấy câu nói của người đó đưa lại cho Ngài dịp tiện để giảng dạy. Ngài liền nhân cơ hội kể một dụ ngôn Bữa Yến để vạch rõ điều kiện vào Thiên Quốc. Ngài nhìn mọi người và đáp lại:
-Người ta có thể ví Nước Trời như một ngự yến thịnh soạn mà một quân vương đã truyền dọn để mừng lễ cưới con mình. Nhà vua sai bộ hạ đi mời nhiều khách. Nhưng những khách được mời không tỏ vẻ quyết định. Họ đã lấy lẽ nọ lẽ kia để khước từ và tựu trung họ không muốn đến. Nhưng ngày dự yến đã gần, nên nhà vua lại sai bộ hạ đi mời khách và dặn rằng: Hãy nói với những người đã được mời; mọi sự đã sẵn cả, trâu bò gà vịt đã giết và đã dọn xong, vậy xin mời các ông đến dự tiệc. Nhưng những người được mời đồng thanh xin kiếu. Người này nói: Tôi mới tậu đám đất, tôi cần phải đi coi, xin ông miễn chấp. Người kia nói: Tôi mới mua năm đôi bò, tôi phải đi thử ngay hôm nay, xin ông cho tôi kiếu. Người khác chữa mình: Tôi mới cưới vợ, tôi không thể đi được.
Nhiều người khác nữa, không coi lời mời ra sao, họ cứ đi làm, kẻ đi thăm ruộng, người đi buôn. Có những kẻ táo bạo, dám bắt lấy bộ hạ, làm sỉ nhục rồi hủy diệt nữa !
Nhà vua hay câu chuyện, liền nổi giận đùng đùng. Vua sai quân lính đi dẹp bọn sát nhân và đốt nhà của chúng.
Bấy giờ tiệc đã dọn sẵn, và giờ dự tiệc cũng đã gần. Nên nhà vua càng thịnh nộ. Vua cho gọi đám bộ hạ đến và truyền rằng: Tiệc cưới đã sẵn, những kẻ được mời tỏ ra không xứng đáng. Vậy các ngươi hãy ra ngay các nơi công trường, phố xá và mọi cửa thành, hễ gặp ai, hãy gọi vào dự tiệc; gọi cả những người nghèo khổ, tàn tật mù lòa và liệt bại vào đây nữa.
Đám bộ hạ hối hả ra đi, gặp ai cũng mời vào. Tuy nhiên còn thừa chỗ. Một người bộ hạ bẩm với nhà vua: Thưa bệ hạ, thần đã thi hành mệnh lệnh, nhưng hãy còn dư nhiều chỗ. Nhà vua lại hạ lệnh: Ngươi hãy ra ngoài đường và vào hang cùng ngõ hẻm, gặp ai cũng ép người vào đầy nhà Ta. Ta bảo thật: Không ai trong những kẻ được mời, sẽ được hưởng tiệc của Ta, cho dầu bây giờ họ lại muốn đến.
Nhờ lệnh đó, một lát sau phòng cưới đã đầy khách dư tiệc. Lớp người nghèo khổ xưa nay cảm thấy sung sướng. Vì không những được dự tiệc mà còn được lãnh chiếc áo quý nhà vua ban cho. Nhưng có người bởi kiêu hãnh hoặc hiềm thù với nhà vua, không chịu nhận áo cưới và cốt vào ăn cho sướng bụng. Bởi thế, lúc ngự vào xem những người ăn tiệc, nhà vua nhận ra một người không mặc áo cưới. Nhà vua thịnh nộ bảo hắn rằng:
Anh kia sao dám vào đây mà không mặc áo cưới ? nhưng người đó chỉ tráo mắt nhìn không thèm thưa lại. Bấy giờ trời đã tối khuya. Nhà vua truyền đám bộ hạ; Hãy trói chân tay nó lại, hãy ném nó ra ngoài cửa, ra nơi tối tăm để nó nghiến răng và khóc lóc !
Kể xong dụ ngôn, Chúa kết luận:
-Kẻ được gọi thì nhiều, nhưng người được chọn thì lại ít !
Với dụ ngôn trên đây, quả Chúa đã muốn ám chỉ nhiều điều.
Điều thứ nhất: Ngài ví Nước Trời như một tiệc cưới thịnh soạn. Nhà vua thiết tiệc là Thiên Chúa. Vua sai các bộ hạ đi mời hai lượt là Thiên Chúa sai các tiên tri trong Cựu Ước đi giảng lần thứ nhất, và sai các tông đồ trong Tân Ước đi giảng lần thứ hai. Khách được mời lần trước là bọn thượng lưu Do Thái. Nhưng họ kiêu căng và đã khước từ, khách được mời lần sau là lớp thường dân Do Thái và mọi người trong nhân loại.
Điều thứ hai: Chúa ám chỉ thái độ bọn thượng lưu Do Thái, bọn này được Chúa gọi vào hưởng Nước Trời, nhưng họ bạo ngược thái quá, không những từ chối ân huệ Chúa ban, mà còn giết các tiên tri và Chúa Cứu Thế nữa. Nên Thiên Chúa để cho quân La Mã đốt phá thủ đô của họ, bắt họ phải phiêu bạt mọi nơi.
Điều thứ ba: Chúa ngụ ý những ai muốn nhập đạo Ngài, muốn chịu phép rửa tội, nhất là phép Thánh Thể, phải có linh hồn trong trắng khiết tịnh. Người chịu phép Thánh Thể mà mang tội nặng, cũng ví như kẻ mặc áo dơ mà vào dự tiệc, người đó sẽ bị phạt trong hỏa ngục, nơi tối tăm và đầy tiếng nghiến răng và khóc lóc.
Những ý nghĩa của dụ ngôn trên đây tuy sâu xa, nhưng một số Biệt Phái cũng hiểu. Họ rất tức giận vì Ngài ám chỉ vào họ và ngầm lên án thái độ của họ đối với Ngài. Tuy nhiên lúc ấy họ cũng không dám ra mặt phản đối, hay thóa mạ Ngài một cách công khai. Riêng về phía các tông đồ, mấy ông được theo Chúa đi dự tiệc, cũng không hiểu hết ý nghĩa dụ ngôn. Nhưng các ông hí hửng vì thấy Chúa có tài biện thuyết không ai sánh kịp, làm đối phương thua cuộc và không tìm ra lối thoát. Các ông rất thích dụ ngôn Ngài mới kể, và suy mãi để tìm ra ý nghĩa sâu xa của nó. Các ông sung sướng nhớ lại xưa nay mình vẫn may mắn theo tiếng gọi của Ngài. Nên các ông hy vọng rồi đây trong bữa tiệc Nước Trời, các ông sẽ có một chỗ chắc chắn.
Một người trong các ông để ý nhất về câu Kẻ được gọi thì nhiều, nhưng người được chọn lại ít. Câu đó ý nghĩa làm sao, ông không hiểu. Người Do Thái vẫn chủ trương rằng: Ngoài dân tộc và nòi giống họ ra, ít người được Thiên Chúa cứu. Ông phân vân hay lời Chúa đồng điệu với ý nghĩ kia. Nên sau khi bỏ nhà người Biệt Phái trở về, ông đến xin Ngài giải thích. Ông trình rằng:
-Lạy Thầy, phải chăng sẽ chỉ có ít người được cứu rỗi ?
Chúa nhìn ông và chậm rãi nói cho ông biết lời Ngài phải hiểu theo ý nghĩa khác, chứ không hiểu theo quan niệm người Do Thái; Nước Trời không phải là vật độc quyền của dòng tộc Abraham, nhưng là của chung thiên hạ. Mọi người đều được mời vào nước đó. Tuy nhiên mọi người phải giữ những đều kiện thiết yếu: là gắng công nỗ lực, là cần mẫn siêng năng, chớ biếng lười, chớ tự phụ. Nhưng đáng tiếc là nhiều kẻ đã không giữ đủ điều kiện, vì thế nên người được chọn lại ít. Chúa đáp lại:
-Cửa vào Thiên Quốc là cửa hẹp và khó vào, bởi thế ít người vào được. Phần lớn họ chỉ thích vào theo lối cửa rộng. Nhưng lối cửa ấy sẽ đem đến chỗ chết. Cửa đưa đến sự sống chật chội thay ! Nhưng phải ra sức vào cửa chật chội ấy. Có nhiều kẻ vào quá muộn, họ phải đứng ở ngoài gõ cửa và kêu van: Lạy chủ, xin mở cửa cho tôi. Nhưng người chủ trả lời: Ta không biết ngươi là ai và bởi đâu mà đến. Bấy giờ họ van nài: Thưa chủ xin chủ hãy nhớ lại; chúng tôi đã gặp chủ, đã cùng ăn uống với chủ và được nghe chủ giảng dạy ở các nơi công trường của chúng tôi. Trong ngày ấy nhiều người khác nữa còn kêu rằng Lạy Chúa, lạy Chúa, nào chúng tôi chẳng lấy danh Chúa mà nói tiên tri, mà trừ quỷ, và làm nhiều phép lạ đó ư ? Nhưng chủ cũng trả lời rằng Hỡi quân gian tà, Ta chẳng biết các ngươi bao giờ cả. Các người hãy lui khỏi mặt Ta. Chủ phán xong, người ta nghe thấy họ nghiến răng và khóc than điên hoảng. Nhưng cùng lúc họ bị cực hình, thì cửa lại mở ra để đón lấy những người từ bốn phương tuôn đến. Những người này được dự yến tiệc của Nước Trời, bên cạnh các ông Abraham, Isaac và Jacob.
Chúa kết luận:
-Quả thật, về phương diện của Nước Trời, nhiều kẻ tưởng là được đặc ân và đứng thứ nhất, đã trở nên sau rốt hết. Trái lại nhiều người bị coi là rốt hết và đáng thải hồi, đã trở nên thứ nhất.
Với dụ ngôn trên đây, Chúa đã dạy khá rõ: Nước Trời không phải là tư sản của một dân một nước, hay một lớp người được biệt đãi có địa vị cao trong tôn giáo. Điều kiện vào nước đó cũng không phải là được sống đồng thời với Chúa hay được làm môn đệ Ngài. Nhưng điều kiện thiết yếu là phải hy sinh, phải cố gắng đi vào đường hẹp của Thập Giới, và phải khiêm nhường, cần mẫn làm việc bổn phận. Nói tắt, điều kiện đó hệ tại ở lòng khiêm nhường và trong trắng.
Ai có điều kiện đó, chắc sẽ vào số những người được chọn.