Đấng Khôn Ngoan, sau khi đã soi sáng cho các ngài bằng các giấc mộng ban đêm, chính Người đã đến. “Biểu hiệu về sức mạnh của Thiên Chúa và về vinh quang của Đấng Toàn Năng”, và trở thành lời nói với kẻ son sẻ. Đấng mà từ đây, Người thấy thời gian cứu độ đã rất gần – là Cha, Đấng Kitô, cháu của Anna – đã thi hành những phép lạ trên những kẻ son sẻ, bệnh hoạn, bị ám, trên các kẻ đau khổ, trên tất cả mọi khốn nạn của trái đất.
Nhưng trong niềm vui được có một người mẹ, thì đây, Cha thì thầm một lời kín ẩn trong bóng tối của ngôi Đền Thờ, nơi cất giữ mọi hy vọng của Israel, của ngôi Đền Thờ mà từ nay đã tới biên giới sự hiện hữu của Người, vì Đền Thờ mới, Đền Thờ thực sự, không phải chỉ chứa đựng hy vọng của một dân, mà là sự xác thực về Thiên Đàng cho dân chúng của cả trái đất, trải qua sự liên tiếp của mọi thế kỷ cho đến tận thế, đã đến gần lúc xuất hiện trên trái đất. Lời này thi hành phép lạ, làm cho lòng dạ son sẻ được sinh nở. Lời này đã cho Cha một người Mẹ. Đấng không phải chỉ có sự trọn lành tự nhiên như thông thường, vì Mẹ sinh ra bởi hai vị thánh; không phải Mẹ chỉ có một linh hồn tốt như nhiều người khác, một sự phát triển liên tục của lòng tốt bởi một sự sẵn sàng tuyệt vời của ý muốn Mẹ, không phải chỉ có một thân xác trinh khiết, nhưng là người duy nhất trong mọi người, Mẹ có một tâm hồn trinh khiết.
Con đã thấy sự sinh sản ra các linh hồn liên tục bởi Thiên Chúa, bây giờ con hãy nghĩ tới nó phải đẹp dường nào, linh hồn biệt ái của Chúa Cha từ trước khi có thời gian, linh hồn là sự ngon lành mãn nguyện của Ba Ngôi Rất Thánh! Ba Ngôi muốn nồng nàn trang điểm cho nó bằng các ân huệ của Người, để nó lại là một tặng phẩm cho chính Người. Ôi! Hỡi Đấng Hoàn Toàn Thánh Thiện mà Thiên Chúa đã tạo dựng cho chính Người, và sau đó là cho phần rỗi của loài người! Trước khi mang Vị Cứu Tinh, Người đã là nguồn gốc của ơn cứu rỗi, là Thiên Đàng sống động, bởi nụ cười của Người, Người đã bắt đầu thánh hóa trái đất.
Linh hồn được tạo dựng để làm linh hồn của Mẹ Thiên Chúa!!! Khi mà, bởi một rung động mạnh mẽ nhất của Tình Yêu Ba Ngôi, tia lửa sống này vọt ra, các thiên thần đều cảm thấy một niềm vui đặc biệt, bởi vì Thiên Đàng chưa bao giờ thấy một ánh sáng nào sống động như vậy. Tựa như một cánh hoa của bông hồng Thiên Quốc, một cánh hoa phi vật chất và cao qúi tựa như ngọc và lửa, là hơi thở của Thiên Chúa, xuống để làm cho sống động một xác thể rất khác với các thân xác khác. Hơi thở này đã xuống cách mạnh mẽ trong sự cuồng nhiệt nồng cháy của nó tới nỗi nguyên tội không thể đụng tới, linh hồn băng qua không gian và ẩn náu trong một lòng dạ được thánh hóa.
Trái đất đã có được bông hoa của nó mà nó chưa biết. Bông hoa thực, bông hoa duy nhất mà sự tươi nở sẽ đời đời: Bông huệ, bông hồng, bông hoa tím và bông lài, hướng nhật qùi và anh thảo hòa trộn với nhau, và cùng với chúng, hết mọi bông hoa của trái đất tan hòa thành một bông hoa duy nhất: MARIA, nơi Người tụ họp hết mọi Nhân Đức và Ân Sủng. Vào tháng tư, đất Palestin hiện ra như một khu vườn mênh mông, nơi hương thơm và mầu sắc là một tặng phẩm tuyệt diệu cho con tim loài người. Nhưng bông hồng đẹp nhất chưa được biết đến. Nó đã nở ra cho Thiên Chúa trong nơi kín ẩn của lòng mẹ, bởi vì Mẹ Cha đã yêu từ giây phút đầu tiên Người được thụ thai. Chỉ khi cây nho đã cho máu của nó để làm rượu, khi nước nho ngọt và mạnh xông lên đầy không khí và lọt vào mũi, Mẹ mới mỉm cười, trước tiên là với Thiên Chúa, rồi với thế giới, khi nói trong nụ cười khôn tả này rằng: “Đây rồi! Cây nho đã cho chùm nho được chỉ định để nghiền nát trong máy ép, để trở nên linh dược đời đời chữa bệnh cho loài người. Đây, nó đã ở giữa chúng ta”.
Cha đã nói: Maria đã yêu ngay từ giây phút đầu tiên Mẹ được thụ thai. Ai đã cho tâm hồn ánh sáng và sự hiểu biết? Ân Sủng. Ai đã làm cho nó biến đi? Tội nguyên tổ và tội trọng.
MARIA, đấng vô tì vết, không bao giờ nguôi nghĩ tới Thiên Chúa, tới sự lân cận với Người, tới tình yêu Người, tới ánh sáng của Người, sự khôn ngoan của Người. Vậy Mẹ đã có thể hiểu và yêu khi mẹ còn là một xác thể đang thành hình chung quanh một linh hồn thuần khiết, và tiếp tục yêu.
Sau này cha sẽ cho con chiêm ngưỡng trong tâm hồn, những vực thẳm của sự trinh khiết nơi Mẹ Maria. Con sẽ cảm thấy một sự choáng váng Thiên Quốc, giống như khi Cha cho con cứu xét tính Vô Tận của chúng ta. Con đã nhìn xem thế nào là sự kiện mang trong lòng bà một con người được miễn nguyên tội, điều làm cho nó mất Thiên Chúa, có thể cho mẹ Người, một người chỉ cưu mang Mẹ một cách tự nhiên như nhân loại, một sự thông minh cao vượt và làm cho bà thành một tiên tri: sự tiên tri về con gái bà mà bà tuyên bố là “Con gái của Thiên Chúa”.
Và con hãy nghĩ đến thế nào là tình trạng của các cha mẹ đầu tiên vô tội. Nếu họ đã sinh ra những người con vô tội theo ý muốn của Thiên Chúa… Đó, ôi loài người, kẻ nói rằng nhắm tới “siêu nhân”, mà với các thói hư của các con, các con hướng về “siêu qủi”. Có những phương tiện để tiến tới “siêu nhân”: biết trốn tránh những ảnh hưởng nguy hại của Satan và để cho Thiên Chúa việc tổ chức đời sống, kiến thức, điều lành, và không ước ao gì hơn ngoài những thứ Thiên Chúa đã ban cho các con (những điều này chỉ còn kém vô tận một chút ), để có thể, trong sự cải tiến liên tục hướng về sự trọn lành, sinh ra những người con là người trong thân xác, là con cái Đấng Khôn Ngoan trong tâm hồn, tức là chiến thắng, tức là mạnh mẽ, tức là vô địch khi đối đầu với Satan, kẻ đáng lẽ đã bị đóng chặt xuống đất từ bao thế kỷ trước giờ nó bị như vậy, và cùng với nó là tất cả những sự ác nơi nó.
Sự sinh ra của Đức Maria
Tôi thấy Anna ra khỏi vườn rau. Bà tì tay vào một người đàn bà, chắc là bà con, vì trông giống bà. Bụng bà rất lớn. Bà có vẻ mệt, có lẽ tại sức nóng, hoàn toàn giống như sức nóng đang đè nặng trên tôi bây giờ.
Mặc dầu khu vườn có bóng mát, nhưng không khí thiêu đốt, nặng nề. Một thứ không khí như cắt được bằng dao, giống như nắm bột nhào đặc và nóng, vì nó nặng chừng nào dưới bầu trời xanh biếc một cách tàn nhẫn, mà bụi bặm tung lên làm cho hơi tối. Chắc là đã từ lâu nắng hạn, bởi vì đất, chỗ nào không được tưới thì thực tình đã biến thành bụi hầu như trắng, một mầu hơi ngả hồng mờ đục, trong khi nó có mầu nâu đỏ đậm tại những nơi được tưới, tại gốc cây hay tại những giải đất bằng, nơi mọc những hàng rau cỏ, hay chung quanh các gốc cây hồng, cây lài hay những cây hoa to nhỏ khác, nhất là ở đàng trước và ở bờ một dàn cây đẹp phân chia vườn cây ăn trái làm hai, dẫn ra tới tận chỗ bắt đầu cánh đồng mà lúa mạch đã gặt xong. Ngay cỏ ở trong đồng cỏ giới hạn miền đất sở hữu cũng khô và ít ỏi. Chỉ ngay ở giới hạn vùng đất mới có một hàng dậu bằng cây sơn tra rừng, đã lốm đốm như sao các trái nhỏ đỏ như hồng ngọc, là có cỏ xanh và dầy hơn; và tại đó có các con cừu và một người mục đồng nhỏ tới tìm cỏ và bóng mát.
Joakim luẩn quẩn bên các luống rau và các cây oliu. Có hai người phụ với ông. Mặc dầu tuổi cao, ông lanh lẹ và làm việc cách hứng thú. Ông đang đào một đường rãnh nhỏ để dẫn nước tới cho các cây khô nước. Nước chảy theo đường mương, hăng hái băng qua cỏ và đất khô, làm thành những bọt trông giống như các tinh thể vàng trong một lát, rồi sau đó chỉ còn lại các cục đất ướt, chung quanh các cây nho và cây oliu nặng trái.
Qua dàn cây rợp bóng, dưới đó các con ong vàng kêu vù vù, tham lam nước cốt của các trái nho vàng, Anna đang từ từ đi về phía Joakim. Nhận ra bà, ông vội vã tới gặp bà.
-Bà ra tận đây sao?
-Trong nhà nóng như cái lò.
-Bà chịu đựng rất nhiều!
-Cái khổ duy nhất của tôi trong những ngày mang bầu sau cùng. Đó là cái khổ của tất cả, người cũng như vật. Joakim, đừng ở qúa lâu dưới mặt trời nóng.
-Nước mà người ta chờ đợi lâu rồi, và từ ba ngày nay tưởng là đã tới, nhưng vẫn chưa có. May mắn cho chúng ta, có được một con suối lưu lượng dồi dào. Tôi đã xẻ một đường mương để tưới, một sự nhẹ nhõm cho các cây mà lá bị tàn và phủ đầy bụi. Nhưng cũng chỉ ngăn cản cho chúng khỏi chết. Nếu có mưa!…
Joakim, với sự lo lắng của tất cả các nông dân, quan sát bầu trời, trong khi Anna phe phẩy bằng một cái quạt giống như được làm bằng lá thốt nốt khô, kết lại bằng những sợi chỉ mầu để giữ cho nó được cứng.
Người bà con nói: “Đàng kia, bên ngoài ngọn đại Hermon, có xuất hiện những đám mây bay lẹ. Gió bắc tới, nó sẽ giải nhiệt, và có lẽ sẽ cho nước”.
-Đã như vậy ba ngày rồi. Nó đùn lên rồi nó rơi xuống khi trăng lên. Lúc này có lẽ cũng giống vậy – Joakim thất vọng.
Anna nói: “Chúng ta về nhà thôi. Ở đây cũng rất khó thở, vả nữa, tôi thấy là nên về…” Bà có vẻ xanh xao hơn, vì mặt bà tái mét.
-Bà đau à?
-Không, nhưng tôi cảm thấy sự bình an lớn lao như tôi đã cảm thấy trong Đền Thờ khi tôi được ban ơn, và tôi cũng lại cảm thấy khi tôi biết rằng tôi sắp làm mẹ. Điều đó giống như cơn xuất thần, một sự mơ màng êm đềm của thân thể, trong khi tâm hồn hân hoan và êm ái trong một sự bình an mà không gì thuộc về loài người có thể so sánh được. Joakim, tôi đã yêu ông. Khi tôi vào trong nhà ông và tự bảo mình: “Tôi đã kết hôn với một người đàn ông công chính”, tôi đã có một cảm giác bình an, cũng giống như mỗi lần tình yêu tiên đoán của ông săn sóc cho Anna của ông. Nhưng sự bình an mà tôi cảm thấy bây giờ không giống như vậy. Ông coi: tôi tin là một sự bình an giống như chất dầu ngon ngọt lan ra, đã xâm chiếm tâm hồn của Jacob, tổ phụ chúng ta, sau khi mơ thấy các thiên thần, và hơn nữa, giống như sự bình an ngon lành của hai vợ chồng Tôbia khi Tổng Thần Raphael đã tỏ mình ra cho họ. Nó thấm nhập vào tôi sâu xa, và tôi càng thưởng thức nó thì nó càng gia tăng. Tựa như tôi cất mình lên trong không gian tới trời xanh… và tôi không biết tại sao, từ lúc tôi có sự bình an này trong lòng, một ca vịnh đã nảy sinh ra trong tim tôi: ca vịnh của Tôbia. Tôi thấy như nó được viết cho giờ này… cho niềm vui này… cho mảnh đất của Israel được đón nhận nó… cho Jêrusalem tội lỗi mà bây giờ được tha thứ… Nhưng…- đừng cười sự mê sảng của một bà mẹ – nhưng khi tôi bảo mình: “Hãy tạ ơn Chúa vì sự lành Người đã ban cho mày. Hãy chúc tụng Đấng Hằng Hữu để Người tái thiết nhà tạm của Người trong mày”, tôi nghĩ rằng đấng sẽ tái thiết tại Jêrusalem chiếc lều tạm của Thiên Chúa thực sẽ là tạo vật sắp sửa sinh ra này… Và tôi còn nghĩ rằng không còn phải là Thành Thánh, nhưng là thực thể mà tôi sắp sinh ra, sẽ là số phận đã được tiên tri khi Thánh Vịnh nói: “Con sẽ chiếu toả một ánh sáng huy hoàng. Mọi dân tộc trên trái đất sẽ phục lạy trước mặt con, các dân tộc sẽ đến với con để mang lễ vật cho con, họ sẽ thờ lạy Chúa ở trong con và sẽ giữ đất của con như đất thánh, vì nơi con, họ sẽ khẩn cầu Thánh Danh. Con sẽ được hạnh phúc nơi con cái con, vì tất cả sẽ được chúc phúc và họ sẽ tụ họp gần nơi Chúa. Hạnh phúc cho những kẻ yêu con và được hưởng sự bình an của con!…” Và người đầu tiên được hưởng chính là tôi, người mẹ có phúc của Người…
Anna biến sắc khi bà nói những lời này. Bà rạng rỡ như một người từ dưới ánh trăng bước tới trước một đống lửa lớn hay ngược lại. Các giọt nước mắt êm đềm chảy trên má bà, bà không nhận ra, bà mỉm cười với hạnh phúc của bà. Suốt trong khi nói, bà hướng về nhà, đi giữa chồng bà và người bà con. Họ lặng lẽ nghe bà và rất cảm động.
Linh Tiến Khải
Nguồn: RV