Thiên Chúa hiện ra với ông Ghítôn

Thiên Chúa hiện ra với ông Ghítôn và hướng dẫn ông trong cuộc chiến chống các thù địch của dân Do thái

** Lần trước chúng ta đã bắt đầu tìm hiểu các vụ hiện ra trong Thánh Kinh Cựu Uớc, bắt đầu với tổ phụ Abraham và ông Môshê. Tuy nhiên Thiên Chúa cũng hiện ra với các Thủ Lãnh nữa. Sau khi từ Ai Cập vào Đất Hứa dân Do thái vẫn theo chế độ chi tộc riêng rẽ trong một  thời gian lâu, mỗi chi tộc dưới sự lãnh đạo của các bô lão và các Thủ Lãnh được Thiên Chúa chọn để giải thoát dân khỏi sự áp bức và đánh phá của các dân tộc thù nghịch chung quanh.

Trong số các Thủ Lãnh Thiên Chúa đã hiện ra với ông Ghítôn và chọn ông làm người lãnh đạo dân Do thái đánh nhau với dân Madian. Chương 6 sách Thủ Lãnh kể rằng trong bẩy năm liền người Madian dã ức hiếp dân Do thái, khiến họ phải thiết lập những khu an toàn trong các vùng núi, những hang động hốc đá. Dân Madian đóng trại quanh họ và tàn phá hoa mầu, đất đai của họ không để sót lại gì, cho dù là gia súc hay bò lừa cũng vậy. Chúng tràn vào tàn phá xứ sở khiến cho người Isarel hoàn toàn kiệt quệ. Khi dân Do thái kêu lên Giavê, thì Ngài sai một ngôn sứ đến nói với họ: “Giavê, Thiên Chúa của Ít-ra-en phán thế này: Chính Ta đã đưa các ngươi lên khỏi Ai-cập, đã kéo các ngươi ra khỏi nhà nô lệ, đã giải thoát các ngươi khỏi tay Ai-cập, khỏi tay mọi kẻ áp bức các ngươi, và đã đuổi chúng cho khuất mắt các ngươi, đã ban cho các ngươi đất đai của chúng. Và Ta đã phán với các ngươi: Ta là Giavê, Thiên Chúa của các ngươi. Các ngươi không được kính sợ các thần của người E-mô-ri, khi các ngươi cư ngụ trên đất của chúng. Nhưng các ngươi đã không nghe tiếng Ta.”

Tiếp đến chương 6 trình thuật cuộc hiện ra của Giavê với ông Ghítôn. Như trong nhiều văn bản khác, ở đây thần sứ của Giavê cũng chính là Giavê. Bằng chứng là sau đó văn bản viết: “Bấy giờ Giavê quay lại nhìn ông và nói”.

** Vậy “thần sứ của Giavê đến và ngồi dưới cây tùng ở Óp-ra. Cây này là của ông Giô-át, thuộc gia đình A-vi-e-de. Con ông là Ghít-ôn bấy giờ đang đập lúa trong bồn đạp nho để tránh mặt người Ma-đi-an. Thần sứ Giavê hiện ra với ông và nói: “Chào chiến sĩ can trường! Giavê ở với ông.” Ông Ghít-ôn đáp: “Ôi, thưa Ngài, nếu Giavê ở với chúng tôi, thì sao chúng tôi đến nông nỗi này? Đâu cả rồi những kỳ công mà cha ông đã kể lại cho chúng tôi nghe, rằng: chẳng phải Giavê đã đưa chúng ta lên khỏi Ai-cập sao? Thế mà bây giờ Giavê đã bỏ rơi chúng tôi, trao chúng tôi vào tay người Ma-đi-an.” Bấy giờ Giavê quay lại nhìn ông và nói: “Hãy mạnh bạo lên đường cứu Ít-ra-en khỏi tay quân Ma-đi-an. Không phải chính Ta sai ngươi sao? ” Nhưng ông đáp: “Ôi, thưa Ngài, con lấy gì mà cứu Ít-ra-en? Này dòng họ con thấp kém nhất trong chi tộc Mơ-na-se, mà con lại nhỏ nhất trong nhà cha con.” Giavê phán với ông: “Ta sẽ ở với ngươi, và ngươi sẽ đánh quân Ma-đi-an như đánh có một người.” Ông thưa: “Nếu Ngài thương con thì xin cho con một dấu chứng tỏ Ngài đang nói với con. Xin Ngài đừng rời khỏi đây cho tới khi con trở lại, mang theo của lễ đặt trước nhan Ngài.” Người phán: “Ta sẽ ở lại cho tới khi ngươi trở về.”

Đây là một trong các nét đẹp nhất của các ơn gọi: Thiên Chúa luôn luôn chọn kẻ thấp bé vô nghĩa và bất lực nhất trước mắt loài người. Ngài không nhìn và lựa chọn theo nhãn quan của con người trần gian. Đó là điều Ngài sẽ làm đối với cậu bé Đavít, con út trong gia đình ông Giétsê, không cao lớn khoẻ mạnh đẹp trai như các anh.

“Ông Ghít-ôn đi bắt một con dê non làm thịt, và lấy hai thùng bột làm mấy chiếc bánh không men. Thịt thì ông để trong một cái rổ, còn nước cốt thì đựng trong một cái thố. Rồi ông mang đến cho Người ở dưới cây tùng. Khi ông đến gần, thì Thần sứ Thiên Chúa nói với ông: “Hãy lấy thịt và bánh không men đặt trên tảng đá này và rưới nước cốt lên.” Ông đã làm như thế. Thần sứ của Giavê giơ đầu gậy đang cầm trong tay đụng vào thịt và bánh không men, lửa liền từ tảng đá bốc lên, đốt cháy hết thịt cùng bánh không men. Thần sứ Giavê biến khỏi mắt ông. Ông Ghít-ôn thấy đó chính là Thần sứ Giavê. Ông Ghít-ôn nói: “Chết tôi rồi, lạy Giavê là Chúa của tôi, vì tôi đã thấy Thần sứ Giavê nhãn tiền! ” Nhưng Giavê phán với ông: “Bình an cho ngươi! Đừng sợ: ngươi không chết đâu.” Tại đó ông Ghít-ôn xây một bàn thờ kính Giavê, và ông gọi nơi ấy là Giavê – Bình an. Cho đến ngày nay, bàn thờ ấy vẫn còn tại Óp-ra, đất của gia đình A-vi-e-de.”

** Và trong cuộc sống của mình ông Ghítôn cũng có các tương quan thân tình với Thiên Chúa và  được Ngài hướng dẫn từng bước và cho biết những gì ông phải làm.

“Một đêm kia Giavê phán bảo ông: “Hãy lấy con bò mộng của cha ngươi, con bò bảy tuổi, rồi phá huỷ bàn thờ Ba-an của cha ngươi và chặt đứt cây cột thần bên cạnh. Ngươi sẽ xây bàn thờ kính Giavê, Thiên Chúa ngươi, trên đỉnh của nơi kiên cố này, sắp xếp sao cho gọn ghẽ. Ngươi sẽ lấy con bò và dâng làm lễ toàn thiêu với gỗ cây cột thần ngươi đã chặt.” Vậy ông Ghít-ôn mang theo mười người đầy tớ và làm như Giavê đã nói với ông. Tuy nhiên, vì sợ người nhà của cha mình và những người trong thành, ông không dám làm ban ngày, nên đã làm ban đêm. Sáng hôm sau, khi những người trong thành thức dậy, thì kìa bàn thờ Ba-an đã bị triệt hạ, cây cột thần cạnh đó đã bị chặt, và con bò mộng thứ hai đã được dâng làm lễ toàn thiêu trên bàn thờ mới xây. Họ nói với nhau: “Ai đã làm chuyện này thế? ” Rồi họ điều tra và tìm hiểu, thì ra là ông Ghít-ôn, con ông Giô-át, đã làm chuyện đó. Dân thành liền nói với ông Giô-át: “Đưa con ông ra đây! Nó phải chết, vì nó đã triệt hạ bàn thờ Ba-an và đã chặt đứt cây cột thần bên cạnh.” Ông Giô-át nói với tất cả mọi người đứng trước mặt ông: “Các anh bênh quyền lợi của Ba-an ư? Hay là các anh tính cứu thần đó? Kẻ nào bênh quyền lợi Ba-an sẽ phải chết trước khi trời rạng sáng. Nếu Ba-an là thần thì Ba-an cứ tự biện hộ. Ghít-ôn đã phá bàn thờ của Ba-an đó.” Ngày hôm ấy, người ta gọi ông Ghít-ôn là Giơ-rúp-ba-an, mà rằng: “Xin Ba-an đối phó với hắn, vì hắn đã triệt hạ bàn thờ của người.”

Vì dân Do thái đã phạm tội bỏ Giavê Thiên Chúa để chạy theo tôn thờ thần Baal của dân ngoại nên Thiên Chúa mới để cho người Madian ức hiếp họ. Và nhiệm vụ đầu tiên Thiên Chúa sai Ghítôn làm đó là triệt hạ bàn thờ tôn kính thần Baal.

“Tất cả các người Ma-đi-an, người A-ma-lếch và người Phương Đông đều nhất tề tập hợp; họ băng qua sông và đóng trại tại đồng bằng Gít-rơ-en. Ông Ghít-ôn được đầy thần khí của Giavê; ông rúc tù và, và người A-vi-e-de quy tụ lại sau lưng ông. Ông sai sứ giả kêu gọi mọi người trong chi tộc Mơ-na-se, và họ quy tụ lại sau lưng ông; ông sai sứ giả kêu gọi mọi người trong chi tộc A-se, Dơ-vu-lun và Náp-ta-li, họ cũng đều tiến lên đón ông.”

** Và Thiên Chúa đã làm phép lạ như ông xin để củng cố ông trong sứ mệnh bênh vực quyền lợi của dân Do thái và đem họ trở về với Ngài.

“Ông Ghít-ôn thưa với Thiên Chúa: “Nếu đúng là Ngài sẽ dùng tay con để cứu Ít-ra-en như Ngài đã phán, thì này đây con đặt một mớ lông cừu trong sân lúa: nếu chỉ có sương trên lông cừu mà thôi, còn tất cả mặt đất đều khô, thì con biết Ngài sẽ dùng tay con để cứu Ít-ra-en như Ngài đã phán.”Và đã xảy ra như vậy. Sáng hôm sau ông dậy sớm, bóp mớ lông cừu, vắt cho sương chảy ra đầy một chén nước. Ông Ghít-ôn lại thưa với Thiên Chúa: “Xin Ngài đừng thịnh nộ với con, để con được nói một lần nữa. Xin cho con được trắc nghiệm bằng lông cừu một lần nữa thôi: chỉ có lông cừu là khô, còn tất cả mặt đất đều đẫm sương.” Đêm ấy Thiên Chúa đã làm như vậy. Chỉ có lông cừu là khô, còn tất cả mặt đất đều đẫm sương. Ông Ghít-ôn giao chiến bên tây ngạn sông Gio-đan.

Trong cái luận lý ngược đời Thiên Chúa chỉ muốn dùng một số người hết sức nhỏ để đối đầu với quân Madian, nên Ngài ra lênh cho ông Ghítôn nói với dân: ai sợ hãi thì rút lui. Đã có 20 ngàn người rút lui, còn lại 10 ngàn. Thiên  Chúa thấy vẫn còn đông quá, nên Ngài thử họ bằng cách cho xuống sông uống nước. Tất cả những ai quỳ xuống và lấy lưỡi tớp nước đều bị loại bỏ. Chỉ có 300 người dùng tay vốc nước mà uống được chọn.

Bấy giờ ông chia ba trăm người thành ba cánh quân, trao vào tay mọi người tù và, vò rỗng có đuốc bên trong. Ông bảo họ: “Hãy nhìn và làm theo tôi. Khi tới đầu trại, tôi làm gì thì các anh cứ làm theo! Tôi sẽ rúc tù và cùng một lúc với tất cả những người đi với tôi; bấy giờ các anh cũng rúc tù và khắp quanh trại và cùng hô: Vì Giavê! Vì Ghít-ôn! ”

Ông Ghít-ôn cùng với một trăm người theo ông đi tới đầu trại vào đầu canh hai, lúc vừa thay người canh; họ rúc tù và, đồng thời đập bể những chiếc vò đang cầm trong tay. Bấy giờ cả ba cánh quân đều rúc tù và, đập bể vò; tay trái nắm chắc đuốc, tay phải cầm tù và rúc lên, rồi họ cùng hô: “Vì Giavê, vì Ghít-ôn, vung kiếm lên! ” Chung quanh trại, ai nấy đứng yên tại chỗ. Cả trại tán loạn, la ó và chạy trốn. Trong lúc ba trăm người rúc tù và thì Giavê làm cho mỗi người trong khắp trại quay gươm giết bạn mình. Cả doanh trại đều trốn chạy về phía Xơ-rê-ra cho đến Bết Ha Sít-ta, bên bờ suối A-vên Mơ-khô-la, đối diện với Táp-bát.

TMH 497

Linh Tiến Khải

RV

Chia sẻ Bài này:

Related posts