Joakim, với sự lo lắng của tất cả các nông dân, quan sát bầu trời, trong khi Anna phe phẩy bằng một cái quạt giống như được làm bằng lá thốt nốt khô, kết lại bằng những sợi chỉ mầu để giữ cho nó được cứng.
Người bà con nói: “Đàng kia, bên ngoài ngọn đại Hermon, có xuất hiện những đám mây bay lẹ. Gió bắc tới, nó sẽ giải nhiệt, và có lẽ sẽ cho nước”.
-Đã như vậy ba ngày rồi. Nó đùn lên rồi nó rơi xuống khi trăng lên. Lúc này có lẽ cũng giống vậy – Joakim thất vọng.
Anna nói: “Chúng ta về nhà thôi. Ở đây cũng rất khó thở, vả nữa, tôi thấy là nên về…” Bà có vẻ xanh xao hơn, vì mặt bà tái mét.
-Bà đau à?
-Không, nhưng tôi cảm thấy sự bình an lớn lao như tôi đã cảm thấy trong Đền Thờ khi tôi được ban ơn, và tôi cũng lại cảm thấy khi tôi biết rằng tôi sắp làm mẹ. Điều đó giống như cơn xuất thần, một sự mơ màng êm đềm của thân thể, trong khi tâm hồn hân hoan và êm ái trong một sự bình an mà không gì thuộc về loài người có thể so sánh được. Joakim, tôi đã yêu ông. Khi tôi vào trong nhà ông và tự bảo mình: “Tôi đã kết hôn với một người đàn ông công chính”, tôi đã có một cảm giác bình an, cũng giống như mỗi lần tình yêu tiên đoán của ông săn sóc cho Anna của ông. Nhưng sự bình an mà tôi cảm thấy bây giờ không giống như vậy. Ông coi: tôi tin là một sự bình an giống như chất dầu ngon ngọt lan ra, đã xâm chiếm tâm hồn của Jacob, tổ phụ chúng ta, sau khi mơ thấy các thiên thần, và hơn nữa, giống như sự bình an ngon lành của hai vợ chồng Tôbia khi Tổng Thần Raphael đã tỏ mình ra cho họ. Nó thấm nhập vào tôi sâu xa, và tôi càng thưởng thức nó thì nó càng gia tăng. Tựa như tôi cất mình lên trong không gian tới trời xanh… và tôi không biết tại sao, từ lúc tôi có sự bình an này trong lòng, một ca vịnh đã nảy sinh ra trong tim tôi: ca vịnh của Tôbia. Tôi thấy như nó được viết cho giờ này… cho niềm vui này… cho mảnh đất của Israel được đón nhận nó… cho Jêrusalem tội lỗi mà bây giờ được tha thứ… Nhưng…- đừng cười sự mê sảng của một bà mẹ – nhưng khi tôi bảo mình: “Hãy tạ ơn Chúa vì sự lành Người đã ban cho mày. Hãy chúc tụng Đấng Hằng Hữu để Người tái thiết nhà tạm của Người trong mày”, tôi nghĩ rằng đấng sẽ tái thiết tại Jêrusalem chiếc lều tạm của Thiên Chúa thực sẽ là tạo vật sắp sửa sinh ra này… Và tôi còn nghĩ rằng không còn phải là Thành Thánh, nhưng là thực thể mà tôi sắp sinh ra, sẽ là số phận đã được tiên tri khi Thánh Vịnh nói: “Con sẽ chiếu toả một ánh sáng huy hoàng. Mọi dân tộc trên trái đất sẽ phục lạy trước mặt con, các dân tộc sẽ đến với con để mang lễ vật cho con, họ sẽ thờ lạy Chúa ở trong con và sẽ giữ đất của con như đất thánh, vì nơi con, họ sẽ khẩn cầu Thánh Danh. Con sẽ được hạnh phúc nơi con cái con, vì tất cả sẽ được chúc phúc và họ sẽ tụ họp gần nơi Chúa. Hạnh phúc cho những kẻ yêu con và được hưởng sự bình an của con!…” Và người đầu tiên được hưởng chính là tôi, người mẹ có phúc của Người…
Anna biến sắc khi bà nói những lời này. Bà rạng rỡ như một người từ dưới ánh trăng bước tới trước một đống lửa lớn hay ngược lại. Các giọt nước mắt êm đềm chảy trên má bà, bà không nhận ra, bà mỉm cười với hạnh phúc của bà. Suốt trong khi nói, bà hướng về nhà, đi giữa chồng bà và người bà con. Họ lặng lẽ nghe bà và rất cảm động.
Họ vội vã, vì các đám mây bị đẩy bởi luồng gió mạnh, đùn lên chồng chất trên bầu trời. Cánh đồng tối sầm và lay động, báo tin một cơn bão. Khi họ tới ngưỡng cửa nhà, một làn chớp xanh đầu tiên xẻ trên bầu trời, và tiếng gầm của sấm nhắc ta nhớ đến tiếng kêu của một chiếc thùng khổng lồ lăn đi, hòa lẫn với tiếng rào rào của những hạt mưa đầu tiên trên lá khô.
Mọi người đều vào nhà và Anna rút lui về phòng, trong khi Joakim nói chuyện tại ngưỡng cửa với hai người phụ tá của ông về làn nước đã bao chờ đợi, là phúc lành của Chúa cho đất khô. Nhưng rồi niềm vui bị thay thế bằng e sợ, vì một cơn bão đáng ngại nổi dậy, kèm với sấm chớp, và các đám mây chứa đầy nước đá: “Nếu mây rẽ ra, các trái nho và oliu sẽ nát như trong cối đá. Khốn cho chúng ta!…”
Một nỗi lo âu khác xâm chiếm Joakim, vì vợ ông sắp sanh. Người bà con cho ông cái tin bảo đảm rằng Anna không đau đớn, nhưng ông vẫn xao xuyến. Người bà con và các bà khác, trong số đó có bà mẹ của Alphê, ra khỏi phòng của Anna, rồi trở lại với những thau nước nóng và các khăn sấy trên ngọn lửa đang bập bùng vui tươi và rực rỡ trong cái lò ở giữa căn nhà bếp lớn. Ở mỗi bà, Joakim đều hỏi thăm các tin tức, và ông không yên ổn được với lời tuyên bố của các bà. Ngay cả việc không nghe thấy tiếng kêu la của Anna cũng làm ông lo. Ông nói: “Tôi là một đàn ông chưa bao giờ tham dự vào việc sinh đẻ, nhưng tôi nhớ đã nghe nói rằng không đau đớn là dấu rất xấu”.
Đêm đến, được đi trước bởi cơn giông mạnh mẽ khác thường. Thác nước, gió, chớp, tất cả đồng loạt, chỉ ngoại trừ mưa đá đã đến rơi xuống ở miền khác.
Một người con trai nhận xét sự cuồng phong này và tuyên bố: “Đúng là Satan đã ra khỏi hỏa ngục cùng với tất cả các qủi. Hãy nhìn các đám mây đen! Có mùi lưu huỳnh ở trong không khí! Hãy nghe các tiếng gầm rít, các tiếng kêu than van và nguyền rủa. Nếu đúng là nó thì chiều nay nó rất giận dữ”.
Một người con trai khác trả lời: “Nó đã hụt mất một con mồi lớn, hay là Thánh Micae đã đánh nó bằng những cú sét của Thiên Chúa, và sừng với đuôi của nó bị cắt cụt và bị cháy”.
Một người đàn bà chạy qua và kêu: “Joakim, bà sắp sanh, và tất cả đều bằng lòng và sung sướng!” Rồi bà biến mất với chiếc vò trong tay.
Cơn giông bỗng chốc ngừng sau một tiếng sét mạnh tới nỗi nó quăng ba người đàn ông bắn vào tường trước căn nhà. Dưới đất ở trong vườn, chỉ còn lại một lỗ đen bốc khói để ghi dấu. Nhưng một tiếng khóc oe oe giống như tiếng than của một con sơn ca lần đầu tiên không còn kêu nữa, mà là gù gù, lọt qua cửa căn phòng của Anna, đồng thời một chiếc cầu vồng vĩ đại xuất hiện, vẽ cái vòng cung bán nguyệt của nó ngang qua hết bầu trời. Nó ló ra, hay ít nhất, nó có vẻ như ló ra từ đỉnh ngọn Hermon, ngọn núi được mặt trời hôn, có mầu như thứ bạch ngọc trắng hồng tinh tế nhất. Nó vươn lên tới bầu trời rất trong của tháng chín, băng qua không gian đã được rửa sạch mọi dơ bẩn, bay trên các ngọn đồi của Galilê và miền đồng bằng xuất hiện ở phía nam giữa hai cây sung, rồi qua một ngọn núi khác, và dường như đặt chân nó tại đáy chân trời, nơi một dẫy núi dốc đứng che khuất mắt hoàn toàn.
-Một quang cảnh chưa hề thấy bao giờ!
-Nhìn kìa! Nhìn kìa!
-Hình như nó cuốn quanh hết vùng đất của Israel, và đã… Nhưng coi kìa! Đó, một ngôi sao! Trong khi mặt trời chưa tắt! Một ngôi sao tuyệt vời! Nó sáng như một viên kim cương khổng lồ!…
-Và mặt trăng, đó, mặt trăng tròn! Trong khi còn phải ba ngày nữa nó mới tròn. Nhưng coi, nó chói lọi chừng nào!
Các bà liền tới, hớn hở với một bé tí mầu hồng, gói trong tấm khăn trắng toát.
Đó là MARIA mẹ tôi! Một Maria bé tí, có thể ngủ trong đôi tay của đứa trẻ. Một Maria không dài hơn cánh tay, một cái đầu nhỏ mầu ngà hơi hồng và đôi môi nhỏ thắm đỏ, không còn khóc nữa, nhưng đã bắt đầu bản năng mút, nhưng đôi môi bé tí tới nỗi người ta không biết làm sao nó có thể giữ được cái núm vú! Một tí đầu mũi nhỏ ở giữa hai chiếc má tròn, và khi có một cảm giác gì làm cho nó mở mắt! Hai mảnh trời! Hai điểm thơ ngây mầu xanh biếc, nhìn mà không thấy, giữa hai hàng mi rất mịn mầu vàng hầu như hồng, vì nó rất hoe. Ngay những sợi tóc mịn trên cái đầu tròn cũng hoe vàng như mầu mật ong trắng.
Về tai: Hai cái vỏ sò nhỏ mầu hồng, trong suốt, rất toàn vẹn. Các bàn tay… Hai cái gì bé tí, ngo ngoe trong không khí và đưa lên miệng! Chúng nắm lại như hai nụ hồng phủ rêu, đã rẽ các đài hoa xanh ra và phơi bày chất lụa mầu hồng lạt của nó. Và rõ ràng, người ta nói chúng là hai báu vật bằng ngà hay ngọc thạch lựu sáng. Hai bàn tay này có thể làm cách nào để lau từng ấy nước mắt?
Và các bàn chân, chúng đâu? Lúc này chúng chỉ là những chân nhỏ gói trong vải gai. Nhưng đây, bà con ngồi xuống để khám phá. Ôi! Những bàn chân nhỏ! Chỉ độ bốn phân, gan bàn chân là cái vỏ sò mầu san hô đỏ, mu chân cũng là cái vỏ sò như tuyết với các mạch máu xanh. Các ngón là tuyệt tác phẩm của nhà điêu khắc, tí hon và cũng đội triều thiên bằng các vảy nhỏ ngọc thạch lựu sáng. Nhưng làm sao người ta tìm được xăng đan khi các bàn chân búp bê này bắt đầu bước? Các bàn chân nhỏ tới nỗi người ta tự hỏi làm sao nó có thể đứng được? Và các bàn chân nhỏ này có thể đi con đường chông gai, và chịu đựng bao đau đớn dưới chân Thánh Gía?
Nhưng bây giờ điều đó chưa được biết. Người ta mỉm cười khi nhìn đôi bàn chân nhỏ đẹp ngó ngoáy dẫy dụa, các bắp đùi tí hon mũm mĩm, hợp với chiếc bụng nhỏ thành một lỗ nhỏ và các nếp gấp, một cái ức trồi lên từ một chiếc ngực toàn vẹn. Dưới tấm lụa trắng, người ta thấy những cử động hô hấp. Và cũng như người cha hạnh phúc, người ta kề miệng vào để hôn, lắng nghe nhịp đập của qủa tim nhỏ… một qủa tim đẹp nhất mà trái đất có được qua mọi thế kỷ, một trái tim vô nhiễm duy nhất của loài người.
Còn cái lưng? Đây, người ta lật sấp bé lại để nhìn vòm cong của thắt lưng, rồi đôi vai mũm mĩm và cái gáy hồng. Nhưng đây: cái đầu nhỏ dựng lên trên vòm của sống lưng, người ta nói đây là cái đầu của con chim nhìn quanh thế giới mới mà nó đến khám phá. Cô bé kêu lên một tiếng để phản đối việc người ta phô bày cô ra như vậy trước mắt bao người. Cô: sự trinh khiết, trong trắng; cô mà người ta không bao giờ thấy mình trần nữa; đấng hoàn toàn đồng trinh, đấng Thánh, đấng Vô Nhiễm tội. Hãy gói lại, hãy gói lại cái nụ huệ sẽ không bao giờ nở ra trên trái đất, và sẽ cho bông hoa của cô còn đẹp hơn chính cô, mà vẫn luôn luôn là chiếc mầm non. Chỉ có ở trên trời, bông huệ này của Thiên Chúa Ba Ngôi mới mở ra hết các cánh của nó, bởi vì ở trên đó không có bụi của tội lỗi có thể vô tình làm mất giá trị sự trong trắng này. Bởi vì ở trên đó, người ta sẽ phải tiếp đón, trước mặt toàn thể triều thần, đấng mà lúc này, chỉ ít năm nữa, sẽ ẩn náu trong một con tim không tì vết, sẽ ở trong cô: Cha, Con, Thánh Quân.
Đây, cô lại được bọc vào trong vải, và trong tay người cha dưới đất của cô, người mà cô rất giống. Bây giờ thì chưa, bây giờ cô chỉ là một phác họa của con người, tôi muốn nói là cô giống ông khi cô thành người lớn. Cô không có gì giống mẹ cô cả. Từ cha cô thì có mầu da và mầu mắt, và cả mầu tóc, bây giờ thì như trắng, nhưng chắc chắn là sẽ hoe vàng như đôi chân mày đã chứng tỏ. Giống cha các nét, nhưng hoàn toàn hơn và thanh tú hơn, bởi vì đây là phụ nữ, và người phụ nữ này! Của cha là nụ cười và cái nhìn, các cử điệu và bề cao. Khi nghĩ đến Chúa Giêsu, như tôi nhìn thấy người, tôi thấy rằng Anna đã cho cháu ngoại bà khổ người của bà, và cái mầu da ngà đậm hơn. Maria không có cái vẻ oai phong của Anna – một cây thốt nốt cao và mềm mại – nhưng là vẻ đáng yêu của cha.
Các phụ nữ còn nói về cơn giông và sự phi thường của mặt trăng, của vì sao, của cái cầu vồng khổng lồ trong khi các bà cùng với Joakim đi về phòng của người mẹ hạnh phúc, và trả cho bà tạo vật bé nhỏ của bà.
Anna mỉm cười với tư tưởng của bà. Bà nói: “Đây là Vì Sao, dấu hiệu của nó ở trên trời. Maria, cầu vồng bình an! Maria, vì sao của tôi. Maria, vầng trăng sáng! Maria, viên ngọc của chúng tôi!”
-Bà gọi tên bé là Maria sao?
-Đúng, Maria: vì sao, viên ngọc, ánh sáng, bình an…
-Nhưng tên này cũng có nghĩa là cay đắng. Bà không sợ nó đem bất hạnh đến cho cô bé sao?
-Thiên Chúa ở với nó. Nó thuộc về Người từ trước khi nó hiện hữu. Người sẽ dẫn dắt nó trên đường của Người, và mọi cay đắng sẽ biến thành mật ong Thiên Đường. Bây giờ con ở nhà má con, còn một ít thời gian nữa trước khi con hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa…
Thị kiến chấm dứt trên giấc ngủ của Anna đã thành mẹ, và của Maria con bà.
Linh Tiến Khải