Chắc hẳn, đã có lần bạn đặt câu hỏi về ý nghĩa của một vài nghi thức Phụng vụ khi bạn tham dự thánh lễ: dấu Thánh giá, cộng đoàn đứng lên khi nghe công bố Tin Mừng (Phúc Âm), nghi thức bẻ bánh,…
Thật ra, mỗi một nghi thức đều ẩn chứa biết bao ý nghĩa phong phú. Mỗi hành vi phụng vụ đều có ý nghĩa thần học cả.
Tài liệu này được đưa lên mạng lưới điện toán toàn cầu nhằm mục đích giải thích những nghi thức quan trọng của Thánh lễ, được trình bày theo thứ tự thời gian trong Thánh lễ, và cho một vài giải thích liên quan đến Thánh lễ, cũng như trả lời một số câu hỏi mà bạn thường đặt ra.
Những câu trích dẫn trong Thánh lễ, của Sách Lễ Rôma, lấy theo bản dịch 1992 của Hội đồng Giám mục Việt Nam.
1. Thánh lễ bắt nguồn từ đâu?
2. Và diễn tiến lịch sử hình thành Thánh lễ ra sao?
3. Các phần trong Thánh lễ như thế nào?
4. Linh mục đóng vai trò gì trong Thánh lễ?
5. Tại sao Thánh lễ luôn được cử hành giống nhau, đọc hoài những lời bất biến?
6. Tại sao linh mục phải mặc áo dài trắng, áo lễ và đeo dây các phép?
7. Đâu là ý nghĩa của màu sắc các phẩm phục phụng vụ?
8. Tại sao khi bước vào nhà thờ, người ta làm dấu Thánh giá với nước thánh?
9. Tại sao Thánh lễ thường bắt đầu bằng một bài hát?
10. Tại sao linh mục cúi hôn bàn thờ?
11. Dấu Thánh giá mang ý nghĩa gì?
12. Amen nghĩa là gì?
13. Tại sao, sau Công đồng Vatican II, linh mục chủ tế lại đứng đối diện với cộng đoàn?
14. Các bài đọc được chọn lựa như thế nào?
15. Bài Thánh vịnh có vai trò gì?
16. Tại sao phải đứng lên khi nghe công bố Tin Mừng?
17. Tại sao phải làm tới ba dấu thánh giá trước khi nghe Tin Mừng?
18. Tại sao đọc Kinh Tin Kính?
19. Đâu là ý nghĩa của Lời nguyện tín hữu?
20. Quyên tiền có phải là nghi thức thừa thãi không?
21. Tại sao chủ tế đổ ít nước vào rượu?
22. Cử hành Thánh lễ với loại rượu nho nào?
23. Tại sao chủ tế lại rửa tay cuối phần Dâng lễ?
24. Kinh Tạ Ơn là gì?
25. Tại sao chỉ có một mình linh mục đọc Kinh Tạ Ơn?
26. Chúc bình an, một hành vi xã giao mà thôi?
27. Nghi thức bẻ bánh có ý nghĩa gì?
28. Tại sao chủ tế bỏ một miếng bánh thánh nhỏ vào chén thánh?
29. Tại sao phải dùng bánh không men trong Thánh lễ?
30. Có phải không lên rước lễ vì ta tự xét là không xứng đáng hoặc chưa sẵn sàng chăng?
31. Tại sao chúng ta ít khi được rước cả Mình Thánh và Máu Thánh Chúa?
32. Nên rước lễ bằng tay hay bằng miệng?
33. Tại sao các tín hữu không tự đến lấy bánh thánh?
34. Câu chúc kết thúc Thánh lễ “Lễ đã xong, chúc anh chị em ra về bình an” có ý nghĩa gì?
35. Bổng lễ (tiền xin lễ) để làm gì?
36. Có thể cử hành Thánh lễ chỗ nào khác ngoài nhà thờ không?
37. Dự lễ qua đài truyền hình hoặc truyền thanh có được coi là tham dự Thánh lễ thật sự hay không ?
38. Tại sao ngôn ngữ phụng vụ không thích nghi với ngôn ngữ ngày nay?
39. Để cử hành Thánh lễ, người ta có thể thay thế bánh miến và rượu nho bằng các thứ khác, chẳng hạn bằng cơm và trà ở Á châu, hoặc bằng bánh khoai mì và rượu thốt-nốt bên Phi Châu được không?
40. Tại sao buộc đi lễ Chúa Nhật?
* Giải thích một số từ Phụng vụ
1. Thánh lễ bắt nguồn từ đâu?
Như vậy, chúng ta thấy rõ Bữa Tiệc Ly bắt nguồn từ một nghi thức tạ ơn của người Dothái được cử hành để tưởng nhớ cuộc giải phóng của dân riêng Thiên Chúa. Nhưng dù vẫn giữ lại ý nghĩa của nghi thức này, Chúa Kitô lại làm phong phú thêm bằng một ý nghĩa mới mang tầm vóc hoàn vũ. Chính Người, là Đấng Cứu Tinh mà mọi người mong đợi, đang thực hiện cuộc giải phóng dân mới của Chúa, tức là Giáo Hội, được cứu độ bởi Thánh Giá và sự phục sinh của Người. Từ Bữa Tiệc Ly đó, các Kitô hữu dâng lên Chúa Cha, mỗi ngày và mọi nơi, của lễ hy sinh và tạ ơn của chính Chúa Kitô.
2. Và diễn tiến lịch sử hình thành Thánh lễ ra sao?
Vào thế kỷ XII, việc tôn sùng đối với sự hiện diện thực sự của Chúa Kitô nơi Bánh Thánh đưa đến việc trưng bày Bánh Thánh trên bàn thờ (Chầu Thánh Thể). Việc linh mục giơ cao bánh đã được truyền phép xuất phát từ việc các tín hữu ước mong được “nhìn” Bánh Thánh (khoảng từ năm 1200). Việc nâng cao Chén Thánh được thêm vào sau đó.
Vào thế kỷ XIII và XIV, người ta thấy xuất hiện những cuộc kiệu rước Thánh Thể đầu tiên. Tín hữu “ngắm nhìn” Thánh Thể nhưng ít khi rước lễ. Phải chờ đến triều đại của Đức Giáo hoàng Piô X, họ mới ý thức lại việc rước lễ “thường xuyên” (1905) và việc cho trẻ em rước lễ (1910).
Trong Thánh lễ, các tín hữu rất thụ động. Năm 1947, Đức Giáo hoàng Piô XII công bố Thông điệp “Mediator Dei” (Đấng Trung gian của Thiên Chúa) nhằm canh tân Phụng vụ dưới mọi phương diện, trong đó có việc mời gọi cộng đoàn đối đáp với linh mục chủ tế.
Với Công đồng Vatican II, người ta tìm lại được ý nghĩa sâu xa của Thánh lễ, được tất cả mọi người cùng cử hành dưới sự chủ toạ của linh mục, là bữa tiệc của Thiên Chúa và là nghi thức bẻ bánh. Cách đây không lâu, lòng tôn sùng Thánh Thể vẫn còn được xem như là việc đạo đức cá nhân, nay thì Thánh lễ lại trở nên hành vi tạ ơn của toàn dân Chúa.
3. Các phần trong Thánh lễ như thế nào?
° Phụng vụ Thánh Thể
– Dâng lễ: chuẩn bị lễ vật mà trong giây lát nữa sẽ trở thành Mình và Máu Chúa Kitô.
– Kinh Tạ Ơn: là trung tâm và là đỉnh điểm của Thánh lễ (chúng ta sẽ khai triển ở phần sau).
– Những nghi thức Hiệp lễ: Kinh Lạy Cha, chúc bình an, bẻ bánh, kinh Lạy Chiên Thiên Chúa, rước lễ và lời nguyện hiệp lễ.
Sau phần Phụng vụ Thánh Thể là nghi thức Kết lễ: chào và ban phép lành, và giải tán cộng đoàn giáo dân.
4. Linh mục đóng vai trò gì trong Thánh lễ?
5. Tại sao Thánh lễ luôn được cử hành giống nhau, đọc hoài những lời bất biến?
° Tạ ơn: Kinh Tạ Ơn
° Bẻ ra: Nghi thức bẻ bánh
° Trao cho cho các môn đệ: rước lễ
Về vấn đề tham dự Thánh lễ Chúa Nhật, chúng ta có thể đặt câu hỏi: Tại sao không cử hành Thánh lễ ngày thứ năm, vì Chúa Kitô đã lập Bí tích Thánh Thể ngày Thứ Năm Tuần Thánh?
Chúa Nhật là ngày ưu tiên để cử hành Thánh lễ, vì đó là ngày Chúa Phục Sinh. Và Thánh lễ chỉ có thể cử hành khi Chúa Kitô đã sống lại. Thánh Phaolô có nói: “Nếu Chúa Kitô không sống lại, thì lời giảng dạy của chúng tôi là hư vô và đức tin của anh em là mơ hồ” (1 Cr 15,14). Nói cách khác, nếu Chúa Kitô không sống lại, thì không có đức tin, không có Giáo Hội và cũng không có các bí tích.
Như thế, cử hành Thánh lễ Chúa Nhật có một ý nghĩa thần học rất quan trọng. Thánh lễ không phải là sự lặp lại của Bữa Tiệc Ly. Cử hành Thánh lễ Chúa Nhật xác định rằng đó là sự tưởng niệm sự chết và sự sống lại của Chúa Kitô. Chính trong buổi tối Phục sinh mà hai môn đệ, trong nhà trọ tại làng Emmau, đã nhận ra Chúa Sống Lại khi Người bẻ bánh (Lc 24,13-35).
Sau cùng, Chúa Nhật là ngày toàn Dân Chúa dâng lời tạ ơn, tán tụng lên Thiên Chúa, cảm tạ Người đã chiến thắng sự chết.
6. Tại sao linh mục phải mặc áo dài trắng, áo lễ và đeo dây các phép?
Phó tế chỉ mặc áo trắng và dây các phép (chéo vai).
Trong Hội Thánh là Nhiệm Thể Chúa Kitô, các chi thể không thi hành cùng một chức vụ như nhau. Khi thi hành việc phụng tự, sự khác biệt về chức vụ được biểu lộ ra bề ngoài nhờ sự khác biệt về phẩm phục. Do đó phẩm phục là dấu chỉ của mọi thừa tác viên. Hơn nữa, phẩm phục thánh làm tăng vẻ trang trọng của chính nghi lễ phụng vụ.
Nếu linh mục phải mặc áo dài trắng, áo lễ và đeo dây các phép trong Thánh lễ, chính chỉ vì muốn cho mọi người biết rằng linh mục nói và hành động không phải với danh nghĩa cá nhân của mình, nhưng là nhân danh Đức Giêsu Kitô.
7. Đâu là ý nghĩa của màu sắc các phẩm phục Phụng vụ?
Màu trắng (có thể được thay thế bằng màu vàng) gợi lên sự trong sạch, tinh tuyền, nhất là vinh quang của Thiên Chúa, được dành cho các nghi thức Phụng vụ và các Thánh lễ Mùa Phục Sinh và Mùa Giáng Sinh; cũng dùng trong các lễ kính, lễ nhớ về Chúa không phải là lễ kính nhớ cuộc thương khó của Người; các lễ kính Đức Mẹ, các thiên thần, các thánh không phải là thánh tử đạo. Màu trắng còn diễn đạt sự phục sinh của Chúa Kitô cũng như sự phục sinh của chúng ta sau này. Nơi bàn tiệc thiên quốc những người được tuyển chọn đều mặc y phục trắng toát (x. Kh 7,9).
Màu xanh lá cây được dùng trong các Thánh lễ trong Mùa Thường Niên hoặc Quanh Năm. Màu xanh lá cây là màu của niềm hy vọng và của sự sống. Khi thấy vị linh mục tiến lên bàn thờ trong phẩm phục màu xanh, điều đó cho chúng ta nghĩ rằng chúng ta là những người có niềm hy vọng lớn lao, là đoàn lữ hành đang được Chúa Kitô dẫn đến những cánh đồng cỏ xanh tươi của miền đất hứa…
Màu hồng được sử dụng 2 lần trong năm (Chúa Nhật III Mùa Vọng và Chúa Nhật IV Mùa Chay) để mời gọi tín hữu hưởng niềm vui thầm kín và an lành trong niềm trông đợi Đấng Cứu Tinh hoặc trong sự chuẩn bị đón mừng Chúa Kitô Phục Sinh.
Tại Việt Nam, màu hồng thường được dùng trong Thánh lễ Hôn phối, trong bầu khí vui tươi, để diễn đạt tình yêu nam nữ, là hình ảnh của tình yêu Chúa Kitô với Giáo Hội của Người.
8. Tại sao khi bước vào nhà thờ, người ta làm dấu Thánh giá với nước thánh?
9. Tại sao Thánh lễ thường bắt đầu bằng một bài hát?
“Ngọt ngào tốt đẹp lắm thay,
Anh em được sống sum vầy bên nhau!”
Niềm vui này phải được diễn tả cụ thể trong nghi thức đầu tiên của Thánh lễ là sự tập họp của đoàn dân Chúa.
10. Tại sao linh mục cúi hôn bàn thờ?
Đối với người Dothái, bàn thờ vừa là nơi tế lễ, vừa là chỗ thiết tiệc, là nơi mà con cái Thiên Chúa được nuôi dưỡng và giải khát.
Nếu bàn thờ có ý nghĩa phong phú như thế, bạn đừng lấy làm lạ khi thấy vị linh mục cúi hôn bàn thờ lúc bắt đầu Thánh lễ. Đó là cử chỉ tôn kính đối với Chúa Kitô và đối với hy lễ của Người.
11. Dấu Thánh giá mang ý nghĩa gì?
12. Amen nghĩa là gì?
Amen là một chữ Dothái. Các tín hữu thời Cựu Ước thường dùng Amen để kết thúc lời cầu nguyện của họ. Chúa Kitô cũng đã sử dụng, không những lúc Người cầu nguyện, mà còn cả trong lúc giảng dạy để nhấn mạnh, làm nổi bật chân lý Người nói: “Amen – Thật – Ta bảo thật các ngươi…” Chúng ta thường gặp ngôn thức này trong Tin Mừng.
Trước kia, sau các lời nguyện, người ta thưa “Ước gì được như vậy”. Bây giờ người ta thích dùng chữ Amen hơn, vì ước gì được như vậy không thể diễn tả hết được sự phong phú của chữ Amen.
Khi thưa Amen, người ta không chỉ bày tỏ ước muốn được như vậy, mà còn xác nhận một điều chắc chắn. Đó là trường hợp khi vị linh mục công bố: “Mình Thánh Chúa Kitô”, và tín hữu thưa: “Amen”. Chữ Amen ở đây có nghĩa “Vâng! Tôi xác tín Chúa Kitô đến ngự trong tôi dưới hình bánh này”. Đó là một điều chắc chắn!
Khi bạn thưa Amen sau lời nguyện của linh mục chủ tế, điều đó không chỉ có nghĩa là ước muốn những lời cầu nguyện đó được chấp nhận, nhưng còn nói lên rằng: lời nguyện đó cũng là lời nguyện của chính bạn, và bạn muốn tháp nhập vào đó với hết tâm tình.
Hơn thế nữa, Amen diễn đạt đức tin của toàn cộng đoàn vào sự trung tín của Chúa. Người sẽ nhậm lời những gì cộng đoàn cầu xin với niềm tin tưởng. Bởi vì căn gốc của chữ Dothái này có ý nghĩa sự trung thành, trung tín. Như thế, khi thưa Amen, chúng ta tung hô sự trung tín của Chúa, như lời Thánh Phaolô: “Xin Thiên Chúa là Đấng trung tín chứng giám cho rằng lời nói của chúng tôi đối với anh em, không phải là vừa “Có” lại vừa “Không”. Quả thế, Con Thiên Chúa là Đức Giêsu Kitô, Đấng mà chúng tôi đã rao giảng nơi anh em, […], nơi Người chỉ là “Có” mà thôi. Bởi chưng bao nhiêu lời hứa của Thiên Chúa đã thành “Có” ở nơi Người. Vì thế, nhờ Người mà chúng tôi hô lên lời “Amen” tôn vinh Thiên Chúa” (2 Cr 1,18-20).
13. Tại sao, sau Công đồng Vatican II, linh mục chủ tế lại đứng đối diện với cộng đoàn?
Sau Công đồng Vatican II, linh mục chủ tế không quay lưng vềà phía cộng đoàn như theo truyền thống nữa, mà quay mặt về cộng đoàn trong suốt Thánh lễ. Thông thường, chúng ta đối diện với người nào đó khi nói chuyện. Do đó, thật là hợp lý khi linh mục chủ tế hướng về cộng đoàn: chào đầu lễ, bài giảng… Khi linh mục công bố Tin Mừng, chính là Chúa Kitô nói với dân Người.
Nhưng khi cầu nguyện thì sao? Khi cầu nguyện, tất cả cùng thưa với Chúa. Do đó, chúng ta sẽ khó hiểu hơn khi thấy linh mục đứng đối diện với cộng đoàn. Thật ra, bàn thờ được đặt giữa linh mục và cộng đoàn. Sự sắp đặt vị trí như thế có nghĩa là: Chúa không ở trước mặt chúng ta, nhưng ở giữa chúng ta, như lời hứa của Chúa Kitô: “Ở đâu có hai, ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở giữa họ” (Mt 18,20). Thánh Phaolô có nói: “Đức Kitô ở giữa anh em, Người là niềm hy vọng vinh quang!” (Cl 1,27).
14. Các bài đọc được chọn lựa như thế nào?
Còn vào các ngày Chúa Nhật khác mà ta gọi là Chúa Nhật Thường Niên hay Quanh Năm, Bài đọc I được chọn hợp với ý nghĩa của Bài Tin Mừng. Mục đích để làm nổi bật sự hợp nhất của Cựu Ước và Tân Ước, của lịch sử cứu độ mà Chúa Kitô là trung tâm. Nếu có liên hệ tư tưởng với Bài đọc II, thì chỉ là tình cờ mà thôi, vì Bài đọc II theo một chu kỳ riêng biệt.
Các bài đọc được sắp xếp không theo thứ tự thời gian, nhưng theo ý nghĩa thần học và có tính cách sư phạm: trước tiên chúng ta nghe chứng từ của các bậc tiền bối trước thời Chúa Giêsu (bài đọc Cựu Ước); kế tiếp, chứng từ của các vị đã tiếp nhận sự mạc khải của Chúa Kitô Phục Sinh (bài đọc Tân Ước); và sau cùng là lời của chính Chúa Kitô (Tin Mừng).
Trước Công đồng Vatican II, chỉ có hai bài đọc và được lặp lại mỗi năm. Bây giờ, trong mỗi Thánh lễ Chúa Nhật, chúng ta có ba bài đọc, được đọc lại sau một chu kỳ 3 năm có tên năm A, năm B, năm C. Năm A đọc Tin Mừng theo Thánh Mátthêu; năm B, Thánh Marcô; năm C, Thánh Luca; còn Tin Mừng theo Thánh Gioan được đọc mỗi năm trong Mùa Chay và Mùa Phục Sinh. Như vậy, Giáo Hội cho đọc nhiều bài Thánh Kinh hơn trước rất nhiều. Chúng ta có thể nghe gần như trọn vẹn sách Tin Mừng.
° Thánh lễ trong tuần chỉ có hai bài đọc: Bài đọc I trích từ Cựu Ước hoặc Tân Ước (trừ Tin Mừng), Bài đọc II luôn là một đoạn Tin Mừng, được phân phối như sau: trong các tuần 1-9 Quanh Năm, đọc Tin Mừng theo Thánh Marcô; trong các tuần 10-21, theo Thánh Mátthêu; và trong các tuần 22-34, theo Thánh Luca. Trong các Mùa khác, Bài Tin Mừng được chọn theo tính chất đặc biệt của mỗi Mùa.
Trong Mùa Thường Niên, Bài đọc I có chu kỳ 2 năm (năm chẵn và năm lẻ), Bài đọc II (Tin Mừng) có chu kỳ 1 năm. Các Mùa khác, Bài đọc I và II đều có chu kỳ 1 năm.
15. Bài Thánh vịnh có vai trò gì?
16. Tại sao phải đứng lên khi nghe công bố Tin Mừng?
17. Tại sao phải làm tới 3 dấu Thánh giá trước khi nghe Tin Mừng?
Khi làm 3 dấu Thánh giá, chúng ta có thể đọc thầm lời nguyện như sau: “Xin Lời Chúa mở rộng lòng trí con, cho miệng lưỡi con biết công bố Lời Ngài, cho con biết giữ Lời Ngài trong tâm hồn con và thực thi Lời Ngài”.
18. Tại sao đọc Kinh Tin Kính?
19. Đâu là ý nghĩa của lời nguyện tín hữu?
Lời nguyện tín hữu phải ôm trọn toàn thế giới trong vòng tay của mình và khẩn cầu Thiên Chúa đổ ơn dồi dào trên các tạo vật của Người.
20. Quyên tiền có phải là nghi thức thừa thãi không?
° Đàng khác, tình liên đới giữa các phần tử trong cộng đoàn Kitô được cổ vũ ngay từ thời sơ khai để cung cấp cho những nhu cầu của Giáo Hội và của người nghèo.
Do đó, việc quyên tiền trong Thánh lễ là một trong những phương cách thể hiện lòng biết ơn đối với Thiên Chúa và tình liên đới với tha nhân.
21. Tại sao chủ tế đổ ít nước vào rượu?
Ý nghĩa phong phú của các biểu tượng này được thể hiện trong lời cầu nguyện của vị chủ tế khi pha chút nước vào rượu nho: “Cũng như giọt nước này hòa chung với rượu, xin cho chúng con được thông phần bản tính Thiên Chúa của Đấng đã đoái thương chia sẻ thân phận làm người với chúng con”.
22. Cử hành Thánh lễ với loại rượu nho nào?
23. Tại sao chủ tế lại rửa tay cuối phần Dâng lễ?
Hơn nữa, việc rửa tay cũng cần thiết sau khi chủ tế xông hương lễ phẩm và bàn thờ (nghi thức xông hương muốn nói lên rằng lễ phẩm và lời cầu nguyện của Giáo Hội cũng ví như hương trầm bay lên trước nhan thánh Chúa).
Tuy nhiên, ngay từ đầu, nghi thức rửa tay luôn có một ý nghĩa thiêng liêng, đó là dấu hiệu của việc thanh tẩy trong tâm hồn, vì nước là dấu chỉ của sự thanh tẩy.
Khi rửa tay, vị chủ tế đọc lời Thánh vịnh 50, câu 4: “Lạy Chúa, xin rửa con sạch hết lỗi lầm, tội con đã phạm, xin Ngài thanh tẩy”.
Cho dù mọi tín hữu có thể thông dự vào việc thanh tẩy này, nghi thức rửa tay chỉ dành riêng cho chủ tế, vì người ta hiểu rằng, trong chốc lát, vị chủ tế sẽ hành tác nhân danh Chúa Kitô.
24. Kinh Tạ Ơn là gì?
° Hãy nâng tâm hồn lên. – Chúng con đang hướng về Chúa.
° Hãy tạ ơn Chúa là Thiên Chúa chúng ta. – Thật là chính đáng.
Kinh Tạ Ơn luôn luôn ngỏ lời với Chúa Cha.
Cấu trúc Kinh Tạ Ơn:
Chúng ta dừng lại ít phút để khảo sát kỹ lưỡng và để hiểu rõ cấu trúc của Kinh Tạ Ơn. Để tham khảo, tôi đề nghị bạn tìm đọc Kinh Tạ Ơn II trong cuốn sách lễ nào đó. Sau đây là cấu trúc:
1. Đối thoại mở đầu: đối thoại giữa vị chủ tế và cộng đoàn, mà chúng ta vừa nêu ở trên, nhằm mời gọi tâm tình tạ ơn.
2. Lời Tiền Tụng: linh mục chủ tế nhân danh toàn thể cộng đoàn tán tụng Chúa Cha và cảm tạ Người về tất cả công trình cứu chuộc cho nhân loại, hoặc về lý do nào đặc biệt, tuỳ ngày, tuỳ lễ, tuỳ mùa khác nhau. Lời Tiền Tụng cũng làm nổi bật công trình cứu chuộc của Chúa Kitô.
3. Kinh “Thánh! Thánh! Chí Thánh!”: toàn thể cộng đoàn, hợp với các thần thánh trên trời, hát hay đọc “Thánh! Thánh! Chí Thánh!” Đây là lời tung hô, thờ lạy, tạ ơn và vinh danh Chúa Cha.
4. Kinh khẩn cầu : xin Chúa Cha, nhờ tác động của Chúa Thánh Thần, dùng quyền năng để thánh hiến bánh và rượu, nghĩa là làm trở thành Mình và Máu Chúa Kitô.
5. Lời truyền Phép: linh mục nhân danh Chúa Kitô đọc lại những lời Người đã nói trong Bữa Tiệc Ly. Chính Chúa Kitô đã thiết lập Bí tích Thánh Thể trong bữa tối sau cùng này, ban cho các Tông đồ Mình và Máu Người, dưới hình bánh và hình rượu, để ăn và uống, và truyền cho các ông phải làm cho mầu nhiệm này tồn tại mãi.
6. Kinh tưởng niệm: sau lời truyền phép, Giáo Hội tưởng niệm toàn bộ công trình cứu chuộc của Chúa Kitô, nhất là việc tưởng niệm cuộc khổ hình, phục sinh, lên trời của Người, và loan báo ngày Người sẽ trở lại. Kinh tưởng niệm được bắt đầu bằng lời tung hô của cộng đoàn: “Lạy Chúa, chúng con loan truyền Chúa đã chịu chết…”
7. Kinh khẩn cầu (2): xin Chúa Cha, nhờ tác động của Chúa Thánh Thần, để sau khi lãnh nhận Mình và Máu Chúa Kitô, các tín hữu được lãnh nhận ơn cứu độ và được hiệp nhất trong Hội Thánh, là thân thể sống động của Chúa Kitô.
8. Lời chuyển cầu : sau kinh khẩn cầu là một loạt các lời cầu xin, cho Giáo Hội, cho mọi người trong cộng đoàn, cho kẻ sống cũng như đã qua đời, v.v… trong niềm hiệp thông với các thánh.
9. Vinh tụng ca: cuối Kinh Tạ Ơn, một lần nữa linh mục dâng lời tôn vinh Chúa Cha, qua Chúa Con và trong Chúa Thánh Thần.
10. Amen! Toàn thể cộng đoàn kết thúc kInh Tạ Ơn bằng cách xướng hoặc hát Amen! có nghĩa là cộng đoàn tán đồng với tất cả những điều vừa được đọc trong Kinh Tạ Ơn.
Như thế, Thánh lễ, nhất là trong Kinh Tạ Ơn, trở thành tổng hợp và khuôn mẫu cho mọi lời nguyện Kitô giáo, dưới mọi khía cạnh, cho mọi nhu cầu, bắt đầu bằng lời tụng ca và lời tạ ơn lên Thiên Chúa đã ban cho chúng ta biết bao ơn lành. Thực sự, chẳng phải chúng ta xứng đáng lãnh nhận những hồng ân đó, nhưng vì Thiên Chúa đã thương yêu chúng ta trước tiên.
25. Tại sao chỉ có một mình linh mục đọc Kinh Tạ Ơn?
° “Giờ đây tưởng nhớ… chúng con dâng lên Cha bánh trường sinh và chén cứu độ này…”
° “Sau hết, xin Cha rộng lòng thương xót cho tất cả chúng con…”Vị linh mục không tách rời với cộng đoàn; ngài liên kết với cộng đoàn và nhân danh cộng đoàn mà cầu nguyện. Dĩ nhiên, có lúc linh mục phát biểu nhân danh Chúa Kitô: đó là lúc ngài đọc lời truyền phép Thánh Thể. Nhưng hầu hết, ngài phát biểu nhân danh cộng đoàn.Như thế, tất cả cộng đoàn tạ ơn Thiên Chúa, khẩn cầu Chúa Thánh Thần, cả cộng đoàn dâng lời cầu xin lên Chúa Cha. Do đó nếu nói rằng Kinh Tạ Ơn là việc dành riêng cho linh mục mà thôi thì không đúng tí nào. Tuy một mình linh mục đọc hầu hết Kinh Tạ Ơn, nhưng ngài nhân danh mọi người mà làm. Kinh nguyện này không phải là kinh cá nhân của linh mục nhưng là kinh nguyện chung của toàn cộng đoàn. Lời thưa “Amen” của cộng đoàn diễn tả điều đó (đã đề cập ở câu hỏi trước).
26. Chúc bình an, một hành vi xã giao mà thôi?
Nhưng đôi khi việc chúc bình an đòi hỏi một sự cố gắng lớn, bởi vì cử chỉ này đòi hỏi mỗi người ra khỏi cái tôi chật hẹp của mình và coi người khác như là người mà ta phải tôn trọng và yêu thương. Trong một vài trường hợp, để chúc bình an một cách thật lòng, chúng ta cần phải tha thứ trong lòng trước đã, người mà chúng ta sắp đưa tay chúc bình an. Việc này không dễ dàng gì!
Việc chúc bình an được đặt trước phần rước lễ. Điều đó bình thường thôi, bởi vì làm sao chúng ta có thể đến gần Chúa Kitô và nói rằng chúng ta yêu mến Người, trong khi chúng ta từ chối hướng mặt về người anh chị em đang ở bên cạnh chúng ta? “Kẻ nào không yêu mến anh chị em mà mình xem thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà mình không xem thấy được” (1 Ga 4,20).
Như thế, chia sẻ với người bên cạnh một nắm tay, hôn bình an hoặc cúi đầu chúc bình an (tuỳ theo phong tục của mỗi dân tộc) không phải là cử chỉ xã giao, lịch sự, mà là dấu chỉ hiệp thông trong sự bình an và tình yêu thương nhau. Và sự bình an này do Chúa Kitô ban tặng (“Bình an của Chúa hằng ở cùng anh chị em”). Thật vậy, Chúa Kitô đã phán: “Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con. Thầy ban cho các con không như thế gian ban tặng” (Ga 14,27). Do đó, sự bình an này rộng lớn hơn những gì con tim chúng ta có thể chứa đựng được, cũng như rộng lớn hơn những gì bàn tay chúng ta có thể truyền đạt được.
27. Nghi thức bẻ bánh có ý nghĩa gì?
Ngày xưa, nghi thức bẻ bánh chiếm nhiều thời gian vì phải chia sẻ Bánh Thánh cho tất cả cộng đoàn. Ngày nay, vì những lý do mục vụ (số người rước lễ đông chẳng hạn), người ta thường sử dụng những bánh lễ nhỏ cho giáo dân và một bánh lễ lớn cho linh mục. Ngài chỉ bẻ bánh lớn này mà thôi. Do đó, nghi thức bẻ bánh có thể khó nhận ra được, nhưng vẫn luôn giữ được ý nghĩa sâu sắc của nó.
28. Tại sao chủ tế bỏ một miếng bánh thánh nhỏ vào chén thánh?
2. Cũng có thể cho rằng đây là những bánh thánh được giữ lại để cho những người bệnh và những người hấp hối rước lễ. Người ta thay thế lại mỗi khi bánh thánh trở nên khô cứng, bằng cách nhúng vào rượu thánh cho mềm bớt để chịu lễ cho dễ dàng hơn.
Ngày nay, mặc dù chưa có giải thích chính thức nào, người ta thường nói đến ý nghĩa tượng trưng của bánh thánh và rượu thánh. Giới thiệu Mình và Máu, như Chúa Giêsu đã làm ở Bữa Tiệc Ly, theo não trạng của người Dothái, là gợi lên sự chết, vì sự sống (tượng trưng bởi máu) không ở trong xác thịt nữa. Do đó, hoà lẫn Mình Thánh và Máu Thánh trong chén thánh để diễn tả rằng Chúa Kitô hằng sống, đó là chuyện tự nhiên. Vả lại, khi nhìn bánh và rượu trên bàn thờ, chúng ta nghĩ ngay đến bữa ăn, dấu chỉ của sự sống.
Khi bỏ một mẫu bánh thánh nhỏ vào trong chén thánh, chủ tế đọc nhỏ: “Xin Mình và Máu Chúa Giêsu Kitô hoà lẫn với nhau mà chúng con sắp lãnh nhận cho chúng con được sống muôn đời”.
29. Tại sao phải dùng bánh không men trong Thánh lễ?
1. Trước tiên, vì theo gương Chúa Kitô. Theo các Thánh sử Mátthêu (26,17), Marcô (14,12) và Luca (22,7-8), Bữa Tiệc Ly là tiệc Lễ Vượt Qua, trong đó người ta dùng bánh nướng không men để tưởng nhớ ngày dân Dothái, do phải vội vã lên đường trốn ra khỏi Aicập, họ không có đủ thời giờ để chờ bột dậy men rồi đem nướng. Dùng bánh không men là cách để nhắc nhở việc ấy.
2. Vào thế kỷ XII, việc tôn kính Thánh Thể trở nên phổ biến và được thực hiện một cách tỉ mỉ. Người ta cố giữ làm sao không cho một mẩu vụn bánh nào rơi xuống đất. Bánh không men được xét là thích hợp hơn để dâng Thánh lễ vì ít bở hơn và nhẹ hơn bánh có men. Vả lại, với bánh không men, người ta làm được dễ dàng những tấm bánh trắng và đẹp, dấu chỉ sự tinh tuyền của lễ vật chúng ta dâng. Hơn nữa, với bánh không men, người ta dễ làm các bánh nhỏ dành cho giáo dân.
3. Thánh lễ là dấu chỉ của sự hiệp nhất. Do Giáo hội Đông phương vẫn duy trì bánh không men, nên việc chúng ta cũng dùng bánh không men để biểu lộ sự hợp nhất với các Kitô hữu Đông phương.
4. Thánh lễ không phải là bữa tiệc như những bữa tiệc khác. Dùng loại bánh đặc biệt nói lên tính chất đặc thù của bữa tiệc Thánh Thể.
30. Có phải không lên rước lễ vì ta tự xét là không xứng đáng hoặc chưa sẵn sàng chăng?
Bạn hãy nhớ lại câu mà mọi người đều đọc trước khi rước lễ: “Lạy Chúa, con chẳng (xứng) đáng Chúa ngự đến cùng con, nhưng xin Chúa chỉ phán một lời, thì con được lành mạnh” (Sách Lễ Rôma, bản dịch 1992 của HĐGMVN). Như thế, vấn đề ở đây không phải là việc nêu lên phẩm giá của mình, nhưng trái lại, ý thức được rằng rước lễ không phải là một quyền lợi, nhưng là một ân huệ. Khoảng cách giữa sự thánh thiện của Chúa và của ta ví tựa như trời cao với vực thẳm, cho nên đây không là lúc đặt vấn đề mình có xứng đáng hay không để rước Chúa vào lòng. Lời nguyện trên lặp lại lời của viên sĩ quan đã không dám tiếp đón Chúa Giêsu vào nhà mình: “… nhưng xin Ngài phán một lời” (Lc 7,7). Trong Chúa Giêsu, Lời và bản thân Người chỉ là một. Để ý đến lời mời của Chúa Giêsu – “Hãy cầm lấy mà ăn” – quan trọng hơn việc tìm kiếm sự thanh khiết của chúng ta nhiều.
31. Tại sao chúng ta ít khi được rước cả Mình Thánh và Máu Thánh Chúa?
Có người đặt câu hỏi: Có thể rước lễ nhiều lần trong ngày được không? Theo Giáo Luật mới (1983), số 917, ai đã rước lễ rồi thì có thể rước lễ một lần nữa trong ngày đó, nhưng chỉ ở trong Thánh lễ mà họ tham dự mà thôi.
32. Nên rước lễ bằng tay hay bằng miệng?
Ngày nay, người tín hữu được tự do chọn một trong hai cách rước lễ. Cách nào hay hơn đối với bạn? Điều cốt yếu là bạn tham dự bữa tiệc Thánh Thể và đón rước Mình Thánh Chúa Kitô Phục Sinh với tất cả lòng cung kính.
33. Tại sao các tín hữu không tự đến lấy bánh thánh?
34. Câu chúc kết thúc Thánh lễ – “Lễ đã xong, chúc anh chị em ra về bình an” – có ý nghĩa gì?
Giờ đây, anh chị em hãy ra đi trong bình an của Chúa Kitô! Hãy ban tặng sự sống của mình giống như Chúa Kitô đã làm! Hãy yêu mến tha nhân như Người đã làm gương cho chúng ta! Hãy yêu thương, tha thứ và đi gieo niềm hy vọng khắp mọi nơi!
Trong Sách Lễ bằng Pháp ngữ, chủ tế nói: “Hãy ra đi trong bình an của Chúa Kitô” (Allez dans la paix du Christ). Còn trong Sách Lễ bằng Anh ngữ, có thể chọn một trong 3 công thức sau:
– “Thánh lễ đã xong, hãy ra đi trong bình an” (The Mass is ended, go in peace)
– “Hãy ra đi trong bình an yêu mến và phục vụ Thiên Chúa” (Go in peace to love and serve the Lord)
35. Bổng lễ (tiền xin lễ) để làm gì?
36. Có thể cử hành Thánh lễ chỗ nào khác ngoài nhà thờ không?
37. Dự lễ qua đài truyền hình hoặc truyền thanh có được coi là tham dự Thánh lễ thật sự hay không?
Yếu tố đầu tiên của mọi bí tích, đó là cộng đoàn tín hữu đáp lại lời mời gọi của Thiên Chúa, và trong lời cầu nguyện, trong lúc nghe Lời Chúa và trong tình bác ái huynh đệ, họ cùng nhau cử hành sự chết và sự sống lại của Đức Giêsu Kitô.
38. Tại sao ngôn ngữ Phụng vụ không thích nghi với ngôn ngữ ngày nay?
Bạn có được hướng dẫn thực sự trong việc cầu nguyện, trong việc đọc Kinh Thánh không? Bạn có tiếp tục đào sâu giáo lý sơ cấp mà bạn đã được học lúc còn bé thơ không?
39. Để cử hành Thánh lễ, người ta có thể thay thế bánh miến và rượu nho bằng các thứ khác, chẳng hạn bằng cơm và trà ở Á châu, hoặc bằng bánh khoai mì và rượu thốt nốt bên Phi châu được không?
Đàng khác, bạn đừng quên biểu tượng phong phú của bánh miến và rượu nho trong Kinh Thánh. Ví dụ:
° “Thầy là bánh hằng sống” (Ga 6,35.48). “Thầy là bánh từ trời xuống. Ai ăn bánh này sẽ sống đời đời” (Ga 6,51). (Bánh ở đây phải hiểu là bánh miến).
° “Thầy là cây nho thật” (Gioan 15,1). “Thầy là cây nho, các con là cành nho…” (Ga 15,5).
“Bánh miến” và “cây nho” là hai đề tài rất thường gặp trong Kinh Thánh.
Do đó, hai thứ thực phẩm này, hơn hẳn mọi thứ khác, nêu bật ý nghĩa về mối giao ước mới và vĩnh cửu giữa Thiên Chúa và loài người, được đóng ấn trong Đức Giêsu Kitô và được cử hành trong mỗi Thánh lễ.
40. Tại sao buộc đi lễ ngày Chúa Nhật?
Trước câu hỏi: “có buộc đi lễ các ngày Chúa Nhật hay không?”, câu trả lời sẽ là “có” cho những ai không mắc ngăn trở thật sự để đến tham dự thánh lễ.
Vả lại, Giáo Hội khuyên nhủ các tín hữu cử hành Thánh lễ hằng ngày. Tham dự Thánh lễ mỗi ngày là thông phần hoàn toàn với hành vi phụng vụ của Giáo Hội để dâng lên trên bàn thờ tất cả đời sống và lịch sử của con người. Đối với các tín hữu có thể đi nhà thờ được, Thánh lễ hằng ngày đặt sự phục sinh của Chúa Kitô ngay giữa các hoạt động trong ngày của họ: nghề nghiệp, gia đình, xã hội,…
Kết luận
Giáo Hội không ngừng nhấn mạnh sự quan trọng của Thánh lễ trong đời sống Kitô hữu. Ví dụ: theo các văn kiện của Công đồng Vatican II, Thánh lễ là “trung tâm điểm của cộng đoàn tín hữu” (Sắc lệnh LM, số 5), là “nguồn mạch và chóp đỉnh của tất cả đời sống Kitô giáo” (Hiến chế GH, số 11), và là “nguồn mạch ơn thánh hóa cho con người và làm vinh danh Thiên Chúa” (Hiến chế PV, số 10).
Gốc rễ, nguồn mạch, trung tâm, chóp đỉnh: Thánh lễ là tâm điểm của đức tin và đời sống của chúng ta. Theo công thức nổi tiếng của Đức Hồng y Henri de Lubac, “nếu Giáo Hội làm lên Thánh lễ” (si l’Église fait l’eucharistie), thì trước tiên và tiên quyết, “Thánh lễ làm lên Giáo Hội” (l’eucharistie fait l’Église).
Thánh lễ là bữa tiệc, trong đó Thiên Chúa bổ sức cho chúng ta tiến đến hạnh phúc vĩnh cửu. Chúa Giêsu đã phán: “Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì có sự sống đời đời, và Ta, Ta sẽ cho kẻ ấy sống lại ngày sau hết” (Ga 6,54).
Ước gì mỗi người chúng ta biết sống sâu sắc Bí tích Thánh Thể để lãnh nhận những ơn thánh bổ ích cho cuộc đời của chúng ta và để sinh nhiều hoa trái.
* Giải thích một số từ Phụng vụ
Alleluia (hay Halêluia)
Bài giảng (hay Bài Diễn giảng)
Bí tích
Có tất cả 7 bí tích: Rửa Tội (hoặc Thánh Tẩy), Thêm Sức, Thánh Thể, Hoà Giải (hoặc Giải Tội), Xức Dầu Bệnh Nhân, Truyền Chức, Hôn Phối.
Hiến tế Tạ ơn
Kinh Tin Kính
Kinh Vinh Danh
Lễ Misa
Năm Phụng vụ
° Mùa Vọng: khoảng 4 tuần trước Lễ Giáng Sinh.
° Mùa Giáng Sinh: từ Lễ Giáng Sinh tới cuối tuần Lễ Hiển Linh.
° Mùa Thường Niên (hoặc Quanh Năm) (phần I): từ Chúa Nhật sau Lễ Hiển Linh đến Thứ Tư Lễ Tro. Vì ngày Lễ Phục Sinh không cố định nên Mùa này kéo dài từ 5 đến 9 tuần, tuỳ theo năm.
° Mùa Chay: gồm 40 ngày (không tính các ngày Chúa Nhật), từ Thứ Tư Lễ Tro đến Chúa Nhật Phục Sinh.
° Mùa Phục Sinh: gồm 50 ngày, từ Chúa Nhật Phục Sinh đến Chúa Nhật Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống.
° Mùa Thường Niên (phần II): kéo dài từ 25 đến 29 tuần (tuỳ theo năm), từ Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống đến Chúa Nhật I Mùa Vọng. Năm Phụng vụ mới lại bắt đầu.
+ Ngày Lễ Phục Sinh được tính vào Chúa Nhật đầu tiên sau trăng tròn đầu tiên của mùa xuân. Từ ngày Lễ Phục Sinh này, người ta xác định được ngày của 3 lễ khác: Thứ Tư Lễ Tro, 40 ngày trước đó (không tính các ngày Chúa Nhật); Lễ Thăng Thiên, 40 ngày sau (vào ngày thứ năm); Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, 50 ngày sau (vào ngày Chúa Nhật).
Nhà Chầu – Nhà Tạm
Phụng vụ
Thánh lễ Đồng tế
° Tại Đông phương, thánh lễ đồng tế vẫn được duy trì từ xưa tới nay.
“Thánh! Thánh! Chí Thánh!”
° Hoan hô Chúa trên các tầng trời (Mt 21,9).
° Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Chúa (Tv 117,26; Mt 21,9).
° Hoan hô Chúa trên các tầng trời (Mt 21,9).
Câu trong Isaia (6,3) gồm: “(Toàn trái) đất rạng ngời vinh quang Chúa”. Phụng vụ thêm chữ “trời”. Viễn ảnh trở nên bao la: cả trên trời và dưới đất, cả các thiên thần, các thánh và loài người, với muôn loài thụ tạo, đồng thanh tung hô vinh danh Chúa Cha.
Lm. Giuse Vũ Thái Hoà