Sau khi bàn đến trách nhiệm thông truyền đức tin, thông điệp dành chương bốn để nói đến vai trò đức tin trong việc xây dựng công ích. Thư Dothái không những trình bày đức tin như một hành trình mà còn như tiến trình xây dựng một nơi con người có thể chung sống với nhau. Chính vì đức tin gắn kết với tình yêu nên ánh sáng đức tin cũng soi chiếu việc xây dựng công lý và hoà bình (số 50,51). Thật vậy, ánh sáng đức tin không chỉ soi chiếu đời sống nội bộ của Hội Thánh, cũng không chỉ hướng đến thành đô vĩnh cửu trong thế giới mai sau, nhưng còn giúp xây dựng xã hội trần thế hướng đến tương lai tốt đẹp.
Trước hết là gia đình, tế bào căn bản của xã hội (số 52,53). Dù không luận bàn chi tiết, thông điệp khéo léo nhắc đến những giáo huấn căn bản về đời sống gia đình như sự bền vững của hôn nhân giữa người nam và người nữ, sự tốt đẹp của khác biệt giới tính, sự sinh sản. Trong khung cảnh gia đình, đức tin đồng hành với mọi thành viên ở mọi lứa tuổi: trẻ thơ học tin tưởng vào tình thương của cha mẹ, người trẻ phải cảm nhận sự gần gũi và nâng đỡ của cha mẹ và Hội Thánh trong hành trình đức tin.
Nếu được thấm nhuần tinh thần đức tin trong gia đình, đức tin ấy sẽ trở thành ánh sáng soi chiếu mọi mối tương quan xã hội (số 54). Niềm tin vào Thiên Chúa tình yêu thúc đẩy chúng ta xây dựng tình huynh đệ với mọi người, vì Thiên Chúa muốn cho mọi người đều được chia sẻ cùng một phúc lành, và ánh sáng của Thiên Chúa chiếu tỏa trên tôi qua khuôn mặt những người anh em tôi. Trong thực tế, đức tin Kitô giáo đã góp phần tích cực vào việc xây dựng thành đô nhân loại, cách riêng là gây ý thức về phẩm giá độc đáo của con người trong vũ trụ và thúc đẩy con người sống đúng với phẩm giá của mình.
Đàng khác, chính niềm tin vào tình yêu của Đấng Tạo Hoá giúp chúng ta biết tôn trọng thiên nhiên vì nhìn công trình tạo dựng của Chúa như món quà Chúa ban, biết điều hành xã hội để phục vụ công ích vì mọi quyền bính đều phát xuất từ Thiên Chúa tình yêu, nhất là biết tha thứ vì xác tín rằng tình yêu lớn hơn thù hận. Nếu đức tin suy yếu thì nền tảng đời sống cũng bị suy yếu. Nếu chúng ta loại trừ Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống xã hội, thì con người cũng sẽ không còn tin tưởng nhau, sẽ chỉ còn sợ hãi và sự ổn định xã hội bị đe doạ (số 55).
Ánh sáng đức tin còn soi chiếu cuộc đời ngay cả khi phải đau khổ và thử thách (số 56). Người Kitô hữu biết rằng không thể loại trừ đau khổ cách tuyệt đối, nhưng nhờ đức tin, họ có thể đón nhận đau khổ như hành động của tình yêu và tín thác nơi Thiên Chúa là Đấng không bao giờ bỏ rơi chúng ta, như Đức Kitô đã kết hợp với Chúa Cha ngay giữa ngút ngàn đau khổ. Đồng thời ánh sáng đức tin cũng không làm cho chúng ta quên đi những đau khổ của thế giới, nhưng trái lại, thúc đẩy chúng ta đem tình yêu và sự an ủi đến chốn khổ đau, như Thánh Phanxicô Assisi và Mẹ Têrêxa Calcutta đã thể hiện. Đức tin Kitô giáo gắn liền với hy vọng, niềm hi vọng lớn lao đến nỗi ngay cả khi nơi ở trên trần gian này bị tiêu tan thì vẫn có nơi ở vĩnh hằng mà Thiên Chúa đã dọn sẵn cho chúng ta trong Đức Kitô. Cùng với đức tin và đức ái, đức cậy thúc đẩy chúng ta tiến đến tương lai vững chắc, gạt bỏ những ảo tưởng do các ngẫu tượng của trần thế này loan báo, và vì thế, người Kitô hữu không được để mất hy vọng.
Để kết thúc, Thông điệp hướng lòng chúng ta lên Đức Maria, người được xưng tụng rằng, “Bà có phúc vì đã tin” (Lc 1,45). Đức Maria thật sự là gương mẫu tuyệt hảo của đức tin. Nơi Mẹ, hành trình đức tin trong Cựu Ước trở thành hành trình bước theo Chúa Giêsu và đem lại hoa trái phong phú. Ở tâm điểm đức tin Kitô giáo là lời tuyên xưng Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, được sinh ra bởi một người nữ, và trong tác động của Thánh Thần, đã làm cho chúng ta trở nên những người con cái Thiên Chúa. Vì thế, chúng ta được mời gọi hướng nhìn lên Mẹ Maria và khẩn nài ơn trợ giúp. Xin Mẹ giúp chúng ta biết lắng nghe Lời Chúa, dấn bước theo Ngài, phó thác nơi tình yêu của Chúa, và tập nhìn mọi sự như Chúa Giêsu, để ánh sáng của Chúa thật sự soi chiếu nẻo đường chúng ta đi.
Nguồn: WHĐ