Sách Tôbia là một cuốn sách ngắn nhưng trình bầy lòng đạo đức sâu xa của một gia đình do thái với rất nhiều giáo huấn liên quan tới cuộc sống thường ngày. Sách ghi lại nhiều lời cầu cảm động của ông Tôbít và của cô Sara con dâu tương lai của ông.
Ông Tôbít bị đi đầy sang Ninivê, nhưng vẫn trung thành với Do thái giáo và không chạy theo các thói tục của dân ngoại như những người do thái khác. Chúa lại cho ông trở thành người mua sắm cho vua Sanmanaxe tất cả những điều vua cần dùng. Ông thường quảng đại giúp đỡ các người đồng hương nghèo khó.
Sau khi vua Sanmanaxe băng hà, thái tử Sankhêrip lên nối ngôi. Vì nói những lời phạm thượng nên vua Sankhêríp bị Thiên Chúa phạt. Vua phẫn nộ giết nhiều người Do thái. Tuy có lệnh cấm ông Tobít luôn lấy trộm xác họ mà chôn vì lòng thương xót các người đồng hương. Nhưng có một người tố cáo với nhà vua. Vua tìm giết ông nên ông phải lẩn tránh và mất hết nhà cửa gia tài sản nghiệp. Không đầy bốn mươi ngày sau hai thái tử nổi lên giết vua cha rồi bỏ trốn. Hoàng tử Exakhátđôn lên nối ngôi và đặt Akhica, con trai ông Anaên, em trai ông Tôbít làm người trông coi việc tài chính cả nước, và nắm quyền điều khiển toàn bộ công việc quản trị.
Ộng Tôbít vẫn tiếp tục can đảm chôn cất các người đồng hương bị giết. Một hôm sau khi chôn một người bị treo cổ ngoài quảng trường ông về nhà tắm rửa và ngồi nghỉ dưới bức tường. Ông bị phân chim rơi vào mắt và bị mù. Bà Anna vợ ông phải dệt vải kiếm sống. Một hôm bà được ông chủ cho một con dê đem về nhà. Nghe tiếng dê kêu ông Tôbít tưởng là dê ăn trộm bắt bà trả lại. Tuy bà Anna giải thích cho ông hiểu nhưng ông không tin và bắt bà trả lại. Bà giận chồng và nói: “Các việc bố thí của ông ở đâu? Các việc nghĩa của ông đâu cả rồi? Đó, ai cũng biết là ông được bù đắp như thế nào rồi!” Ông Tôbít lòng tràn ngập ưu phiền, rên la kêu khóc và bắt đầu thở than cầu nguyện với Chúa như sau:
“Lạy Chúa, Ngài là Ðấng công chính, mọi việc Ngài làm đều chính trực, tất cả đường lối Ngài đều là từ bi và chân thật; chính Ngài xét xử thế gian. Và giờ đây, lạy Chúa, xin Ngài nhớ đến con, xin đoái nhìn và chớ phạt con vì những tội con đã phạm và những điều ngu muội của con cũng như của cha ông con. Các ngài đã đắc tội trước Thánh Nhan và bất tuân mệnh lệnh của Ngài. Ngài đã để chúng con bị cướp phá, phải tù đày và chết chóc, nên trò cười, đề tài châm biếm và bia nhục mạ cho mọi dân tộc, nơi chúng con đã bị Ngài phân tán. Vâng, các phán quyết của Ngài thì nhiều và chân thật; Ngài đối xử như thế với con vì tội lỗi con, bởi chúng con đã không thi hành mệnh lệnh Ngài và đã chẳng sống theo chân lý trước nhan Ngài. Và nay, xin Ngài đối xử với con theo sở thích của Ngài, xin truyền rút sinh khí ra khỏi con, để con biến khỏi mặt đất và trở thành bụi đất. Quả thật, đối với con, chết còn hơn sống, vì con đã nghe những lời nhục mạ dối gian khiến con phải buồn phiền quá đỗi. Lạy Chúa, xin truyền lệnh cho con được giải thoát khỏi số kiếp gian khổ này. Xin để con ra đi vào cõi đời đời. Lạy Chúa, xin đừng ngoảnh mặt không nhìn con. Quả thật, đối với con, thà chết còn hơn là suốt đời phải nhìn thấy bao nhiêu gian khổ, và phải nghe những lời nhục mạ.”
Cũng trong ngày hôm ấy, ở Éc-ba-tan xứ Mê-đi, cô Xa-ra, con gái ông Ra-gu-ên, đã nghe một trong những người tớ gái của cha cô nói lời nhục mạ. Số là cô đã được gả cho bảy người chồng, nhưng họ đã bị ác quỷ Át-mô-đai-ô giết chết trước khi ăn ở với cô theo tục lệ vợ chồng. Người tớ gái nói: “Chính cô là kẻ sát phu! Coi đó, cô đã có bảy đời chồng mà chẳng được mang tên ông nào! Tại sao chỉ vì mấy người chồng của cô đã chết mà cô lại đánh đập chúng tôi? Thôi, đi với mấy ông ấy cho rồi, và đừng bao giờ chúng tôi thấy cô có con cái gì hết!” Vậy ngày hôm ấy, lòng cô Xa-ra ưu phiền và cô kêu khóc. Rồi lên lầu trên ở nhà cha cô, cô định thắt cổ tự tử. Nhưng nghĩ lại, cô tự nhủ: “Sẽ không bao giờ người ta nhục mạ được cha tôi và nói với người: “Ông chỉ có một cô con gái yêu quý, thế mà vì bạc phận, cô đã thắt cổ tự tử! Như vậy, tôi sẽ làm cho tuổi già của cha tôi phải buồn phiền đi xuống âm phủ. Nên tốt hơn là tôi đừng thắt cổ tự tử, mà phải cầu xin Chúa cho tôi chết đi, để đời tôi không còn phải nghe những lời nhục mạ nữa.” Ngay lúc ấy, cô dang hai tay về phía cửa sổ, cầu nguyện rằng:
“Chúc tụng Chúa, lạy Thiên Chúa từ nhân! Chúc tụng danh Chúa đến muôn đời, và mọi công trình của Chúa phải chúc tụng Ngài muôn muôn thuở. Giờ đây, mặt con hướng về Chúa, mắt con nhìn lên Ngài. Xin Chúa phán, thì con sẽ được biến khỏi mặt đất và không còn phải nghe những lời nhục mạ nữa. Lạy Chúa Tể, Ngài biết con trong sạch, không hề vương ô uế của đàn ông; con đã không làm ô danh chính mình cũng không làm ô danh cha con trên đất khách lưu đày. Con là con một của cha con, và người đâu có con nào khác để thừa kế; người cũng không có anh em cận thân, không còn ai trong họ hàng, để con phải giữ thân làm vợ người ấy. Con đã mất cả bảy người chồng, vậy con còn sống nữa làm chi? Nếu Chúa không ưng làm cho con chết, thì lạy Chúa, xin đoái nghe con kể lể nỗi nhục nhằn.”
Ngay lúc ấy, lời cầu xin của hai người là Tô-bít và Xa-ra đã được đoái nghe trước nhan vinh hiển của Thiên Chúa. Và thiên sứ Ra-pha-en được sai đến chữa lành cho cả hai. Ông Tô-bít thì được khỏi các vết sẹo trắng ở mắt, để ông được ngắm nhìn tận mắt ánh sáng của Thiên Chúa; còn cô Xa-ra, con gái ông Ra-gu-ên, thì được kết duyên với cậu Tô-bi-a, con trai ông Tô-bít, và được thoát khỏi tay ác quỷ Át-mô-đai-ô.
Trong những ngày ấy ông Tôbít sực nhớ lại số bạc đã gửi ông Gabaen tại Raghê bên xứ Mêđi nên sai con trai là Tobia đi lấy lại số bạc ấy. Khi Tôbia đi tìm một người dẫn đường thì Thiên Chúa sai thiên thần Raphael đến trước mặt dưới hình hài một thanh niên. Người bạn trẻ cho Tôbia biết là anh ta thông thạo hết các đường, vì thường đến Mêđi và trọ tại nhà ông Gabaen. Tôbia mừng rỡ báo tin cho cha biết. Thiên sứ vào nhà, và ông Tô-bít lên tiếng chào trước. Thiên sứ nói: “Chúc mừng, chúc mừng ông vui mạnh!” Ông Tô-bít nói: “Còn vui gì nữa mà vui? Tôi là người đã mù cả hai mắt, không còn thấy ánh sáng mặt trời, nhưng nằm trong bóng tối như những người đã chết không được ngắm nhìn ánh sáng. Tuy tôi sống, mà ở giữa người chết, nghe tiếng người, nhưng chẳng thấy một ai.” Thiên sứ nói với ông: “Ông hãy tin tưởng. Chúa sắp chữa lành cho ông rồi! Hãy tin tưởng.” Ông Tô-bít nói: “Tô-bi-a, con trai tôi, muốn đi đến xứ Mê-đi. Anh có thể cùng đi với nó và đưa nó tới đó được không? Tôi sẽ trả công cho anh, người anh em ạ.” Thiên sứ nói: “Tôi có thể đi với cậu ấy. Tôi đã qua Mê-đi nhiều lần, đã ngang dọc khắp các đồng bằng lại biết hết núi non và đường sá ở đó.” Ông Tô-bít nói: “Này người anh em! Gia tộc anh như thế nào, và thuộc chi tộc nào? Xin người anh em cho tôi biết.” Thiên sứ nói: “Chi tộc tôi can gì đến ông?” Ông Tô-bít nói: “Này người anh em, tôi muốn biết sự thật: anh là con ai và danh tánh là gì?” Thiên sứ đáp: “Tôi là A-da-ri-a, con Kha-nan-gia đại nhân, trong hàng anh em của ông.” Ông Tô-bít nói: “Này người anh em, chúc anh mạnh khoẻ và được vạn an! Xin đừng phiền lòng, nếu như tôi đã muốn biết sự thật về gia tộc của anh. Hoá ra anh là người anh em họ hàng của tôi, thuộc giống dòng tôn quý và lương thiện. Tôi có biết hai ông Kha-nan-gia và Na-than, các con của Sơ-ma-gia đại nhân. Hai ông đã cùng đi với tôi đến Giê-ru-sa-lem thờ lạy Chúa và đã không rời xa chính lộ. Anh em của anh là người lương thiện; gốc gác anh tốt lành, vậy xin chúc mừng anh!” Ông còn nói: “Tôi sẽ trả công cho anh mỗi ngày một quan tiền và sẽ đài thọ những gì anh cần dùng, cũng như tôi xử với con tôi vậy. Anh hãy đi với con tôi, rồi tôi sẽ tặng thù lao cho anh.” Thiên sứ nói: “Tôi sẽ đi với cậu ấy. Xin ông đừng sợ, chúng tôi ra đi mạnh khoẻ và sẽ trở về với ông mạnh khoẻ, vì đường đi rất an toàn.” Ông Tô-bít nói: “Xin Chúa chúc lành cho anh, người anh em ạ!” Rồi ông gọi con trai đến và bảo: “Này con, hãy chuẩn bị hành lý và ra đi với người anh em của con. Xin Thiên Chúa là Ðấng ngự trên trời gìn giữ hai anh em đi đường bình an, rồi đưa các con mạnh khoẻ về với cha. Xin thiên sứ của Người cùng đi để phù hộ hai anh em con!”
Trước khi lên đường, Tô-bia-a hôn cha mẹ cậu. Ông Tô-bít nói: “Con đi mạnh giỏi!” Mẹ cậu khóc oà lên và nói với ông Tô-bít: “Tại sao ông sai con tôi đi? Sớm chiều nó chẳng phải là nơi nương tựa cho chúng ta! Chẳng sống quấn quýt bên chúng ta đó sao? Tiền rừng bạc bể nghĩa lý gì đâu sánh với mạng sống của con chúng ta! Ðức Chúa đã cho chúng ta được sống, chừng đó là đủ rồi.” Ông Tô-bít nói với bà: “Bà đừng có lo lắng: con chúng ta mạnh khoẻ ra đi, nó cũng mạnh khoẻ trở về với chúng ta, và mắt bà sẽ thấy ngày nó mạnh khoẻ trở về với bà. Ðừng lo lắng, đừng sợ gì cho chúng nó, em ạ! Vì sẽ có thiên thần bản mệnh cùng đi với con chúng ta, cuộc hành trình của nó sẽ thành công, và nó sẽ trở về mạnh khoẻ!” Bà liền nín, không khóc nữa.
KT 1203
Linh Tiến Khải
Radio Vatican