Vào thời hậu lưu đầy dưới sự lãnh đạo của hai ông Esra và Nơkhêmia, dân Do thái đã tái thiết Đền thờ và tường thành Giêrusalem, với rất nhiều hy sinh gian khổ, vì tình hình kinh tế xã hội khó khăn. Đến tháng thứ bẩy khi con cái Israel đã ổn định nơi ăn chốn ở, họ mới tụ tập nhau ở quảng trường trước cửa Nước và xin ông Esra đem sách Luật ra đọc cho họ nghe. Trong bẩy ngày ngày nào ông Esra cũng đọc sách Luật từ sáng cho tới trưa, và toàn dân lắng nghe sách Luật. Ông Esra và các thầy Lêvi đọc và giải thích sách Luật của Thiên Chúa, nhờ thế mà toàn dân hiểu những gì các ông đọc.
Chương 9 sách Nơkhêmia kể lại nghi thức sám hối như sau:
“Ngày hai mươi bốn tháng ấy, con cháu Ít-ra-en họp nhau lại ăn chay, mình mang bao bị, đầu rắc bụi đất. Những người thuộc nòi giống Ít-ra-en tách mình khỏi những người thuộc chủng tộc khác, rồi họ đứng lên thú nhận tội lỗi mình và lỗi lầm của cha ông. Ðứng tại chỗ, họ đọc sách Lề Luật của Ðức Chúa, Thiên Chúa của họ, trong một phần tư ngày; còn một phần tư kia, họ thú nhận tội lỗi và phủ phục trước nhan Ðức Chúa, Thiên Chúa của họ. Ðứng trên đài dành cho các thầy Lê-vi, có các ông Giê-su-a, Bin-nui, Cát-mi-ên, Sơ-van-gia, Bun-ni, Sê-rếp-gia, Ba-ni, Cơ-na-ni. Các ông lớn tiếng kêu lên Ðức Chúa, Thiên Chúa của mình. Còn các thầy Lê-vi là Giê-su-a, Cát-mi-ên, Ba-ni, Kha-sáp-nơ-gia, Sê-rếp-gia, Hô-đi-gia, Sơ-van-gia, Pơ-thác-gia thì nói: “Mời anh em đứng lên chúc tụng Ðức Chúa, Thiên Chúa của anh em.” Lời cầu chúc tụng này ôn lại lich sử tạo dựng, lịch sử của dân Israel, ngợi khen các kỳ công Giavê Thiên Chúa đã làm cho họ cũng như nhắc lại các bất trung và phản bội của dân được tuyển chọn đối với Thiên Chúa. Các thầy Lêvi thưa lên với Chúa:
“Lạy Chúa, từ muôn thuở cho đến muôn đời, xin chúc tụng danh Ngài vinh hiển, danh vượt trên mọi tiếng ca khen, danh vượt quá muôn lời chúc tụng. Chính Ngài là Ðức Chúa, là Ðức Chúa duy nhất. Chính Ngài đã tạo dựng các tầng trời, các tầng trời cao ngất, cùng toàn thể thiên binh; chính Ngài đã tạo dựng trái đất với muôn vật khắp nơi, biển khơi cùng muôn loài trong đó. Chính Ngài ban sự sống cho muôn vật muôn loài; và đạo binh thiên quốc phủ phục trước Thánh Nhan. Lạy Ðức Chúa, chính Ngài là Thiên Chúa, Ðấng chọn ông Áp-ram, đem ông ra khỏi Ua, là xứ người Can-đê, và cho ông tên mới, đó là Áp-ra-ham. Thấy lòng ông trung tín trước Thánh Nhan, Chúa đã cùng ông lập giao ước, ban cho ông và dòng dõi xứ người Ca-na-an, người Khết, người E-mô-ri, người Pơ-rít-di, người Giơ-vút, người Ghia-ga-si. Lời đã hứa, Ngài giữ vẹn toàn, bởi vì Ngài vẫn luôn công chính. Chúa đã nhìn thấy cảnh khốn cùng của tổ tiên chúng con bên Ai-cập. Ngài đã nghe thấu tiếng kêu than của cha ông chúng con bên Biển Sậy. Chúa đã giáng xuống điềm thiêng dấu lạ phạt Pha-ra-ô cùng với bầy tôi và toàn dân trong xứ, vì Ngài biết chúng căm thù ghen ghét cha ông chúng con, và Ngài đã làm cho Thánh Danh lừng lẫy như mọi người còn thấy ngày nay. Chúa cho biển rẽ ra trước mặt họ, họ đi qua lòng biển vẫn ráo chân. Còn những kẻ đuổi theo, Ngài xô xuống vực thẳm như quăng một hòn đá, xuống dòng nước cuốn trôi. Chúa dùng một cột mây hướng dẫn họ ban ngày, và dùng một cột lửa dẫn dắt họ ban đêm, để soi đường cho họ. Chúa đã ngự xuống núi Xi-nai, từ trời cao Ngài đã phán dạy ban cho họ quyết định công minh, ban luật lệ vững bền cùng thánh chỉ và lệnh truyền trọn hảo. Chúa dạy cho họ biết ngày sa-bát là ngày thánh dành riêng cho Ngài. Ngài dùng ông Mô-sê là tôi trung của Ngài mà truyền cho họ giữ mệnh lệnh, thánh chỉ và Lề Luật.
Họ đói, từ trời Chúa ban xuống bánh ăn. Họ khát, từ đá tảng Chúa ban cho nước uống. Ngài đã truyền cho họ chiếm đất đai mà Ngài đã giơ tay thề sẽ ban cho họ. Nhưng tổ tiên chúng con đã tỏ ra ngoan cố, đã cứng đầu cứng cổ không vâng lệnh Chúa truyền. Họ giả điếc làm ngơ, cũng chẳng thèm ghi nhớ những kỳ công Chúa làm. Họ cứng đầu cứng cổ muốn phản loạn cùng Ngài, nuôi trong lòng ý định trở lại kiếp làm tôi. Nhưng Chúa là Thiên Chúa luôn sẵn sàng thứ tha, Ngài từ bi nhân hậu, chậm giận, giàu tình thương, đã không bỏ rơi họ. Ngay cả khi họ đúc một con bê tự nhủ rằng: “Thần của ngươi đó, thần đã đưa ngươi lên từ miền đất Ai-cập”, và cả khi họ xúc phạm nặng nề đến Chúa, thì Ngài vẫn mở lượng hải hà, không để họ bơ vơ trong sa mạc. Cột mây không rời họ ban ngày nhưng đi đầu dẫn lối. Cột lửa chẳng xa họ ban đêm nhưng soi đường cho họ. Chúa đã ban thần khí tốt lành cho họ nên khôn ngoan sáng suốt. Ngài cũng chẳng từ chối không cho họ man-na. Khi cơn khát dày vò, Ngài lại ban nước uống. Bốn mươi năm trường trong sa mạc, có Ngài nuôi dưỡng, nào họ thiếu thốn chi! Áo họ mặc không sờn, chân họ đi không sưng. Chúa đã ban cho họ các nước các dân, đã phân chia cho họ làm vùng biên giới. Họ đã chiếm đất của Xi-khôn, vua Khét-bôn, và đất của Ốc, vua Ba-san nữa. Chúa đã làm cho con cháu họ đông như sao trên trời, rồi Ngài lại dẫn đưa vào miền đất Ngài đã truyền cho bậc tổ tiên phải vào mà chiếm giữ. Và con cháu họ đã vào chiếm lấy đất đai.
Trước mặt họ, Chúa đã hạ nhục người Ca-na-an là dân cư trong xứ Ngài đã trao nộp cư dân vào tay họ, vua chúa là thứ dân, để họ muốn làm gì mặc ý. Họ chiếm các thành trì kiên cố và đất đai mầu mỡ phì nhiêu, rồi họ còn chiếm đoạt những ngôi nhà của cải đầy dư, những hồ chứa nước đã đào sẵn, những gốc nho, những vườn ô-liu và bao nhiêu là cây trái. Họ được ăn uống thoả thuê, và trở nên to béo đẫy đà, vui hưởng một cuộc sống dồi dào sung túc, nhờ lòng nhân hậu lớn lao của Ngài. Nhưng họ đã nổi lên chống lại Chúa, vất bỏ sau lưng luật pháp Ngài, đã từng giết hại nhiều ngôn sứ, những vị thay mặt Ngài mà dạy dỗ bảo an, mời gọi họ ăn năn trở lại. Và họ đã xúc phạm nặng đến Ngài. Vì thế, Ngài đã trao nộp họ cho địch thủ mặc tình áp bức, và khi gặp gian nan khốn quẫn, họ đã kêu lên Ngài. Và Ngài, tự cõi trời cao thẳm, đã đoái nghe lời họ kêu xin, và mở lượng hải hà ban cho họ những vị cứu tinh giải thoát họ khỏi tay người áp bức. Nhưng vừa mới được thư thái bình an, thì trước Thánh Nhan, họ đã làm điều dữ. Thế nên Chúa lại phó mặc họ vào tay địch thù, và chúng chà đạp họ. Họ lại kêu lên Ngài, và Ngài, tự cõi trời cao thẳm, đã đoái nghe lời họ kêu xin, và biết bao phen đã mở lượng hải hà thương giải cứu. Chúa đã cảnh cáo cho họ trở về với Lề Luật của Chúa, nhưng họ đã tỏ ra lì lợm, chẳng chịu vâng theo mệnh lệnh Ngài; họ vi phạm các quyết định Ngài ban để con người tuân theo mà được sống; họ vùng vằng, chẳng ghé vai mang ách, cứng đầu cứng cổ, không chịu để tai nghe. Ðã nhiều năm Chúa kiên nhẫn với họ, dùng thần khí và ngôn sứ của Ngài mà đưa lời cảnh cáo. Nhưng họ chẳng màng lắng tai nghe, nên Ngài trao nộp họ vào tay dân tứ xứ. Tuy nhiên, do lượng hải hà, Chúa đã không diệt trừ, cũng chẳng bỏ rơi họ, vì Ngài là Ðấng nhân hậu từ bi.
Vậy giờ đây, lạy Thiên Chúa chúng con thờ, Thiên Chúa cao cả, uy hùng và đáng sợ, Ðấng giữ giao ước và tỏ lòng nhân nghĩa, xin Ngài đừng coi nhẹ mọi nỗi gian truân giáng xuống trên chúng con, trên vua chúa, quan quyền, trên tư tế, ngôn sứ cùng bao tổ phụ và toàn thể dân Ngài, từ thời các vua chúa Át-sua cho đến ngày nay nữa. Chúa thật là công bình trong mọi việc xảy đến cho chúng con, vì Ngài đã xử sự theo lẽ thật, còn chúng con, chúng con lại đã làm điều dữ. Hơn nữa, vua chúa và quan quyền, tư tế và tổ tiên chúng con đã không tuân giữ Lề Luật Chúa, không quan tâm đến những mệnh lệnh của Ngài cũng như các chỉ thị Ngài dùng để răn dạy họ. Khi vua chúa còn cai trị lãnh thổ, giữa bao nhiêu của cải Chúa ban, trong miền đất phì nhiêu bát ngát Chúa trải rộng ra trước mặt họ, họ đã không phụng sự Ngài, không từ bỏ các việc làm xấu xa. Nay, Chúa thấy đó: chúng con là nô lệ, trong miền đất Chúa ban cho tổ tiên chúng con để các ngài hưởng hoa màu của cải; Chúa thấy đó: chúng con là nô lệ ngay tại miền đất này! Ðất đai trổ sinh nhiều hoa trái là để cho vua chúa nước ngoài, Ngài đặt họ lên cai trị chúng con vì tội lỗi chúng con đã phạm. Họ mặc tình thống trị người và vật của chúng con. Tình cảnh của chúng con thật là quẫn bách!”
KT 1202
Linh Tiến Khải
Radio Vatican