Sau khi phân tích các khía cạnh tâm lý, triết lý, thần học và tu đức của ý niệm về tội lỗi, chúng ta có thể đưa ra ba đường nét chính về ý thức mà con người và tín hữu Kitô có về tội lỗi và tình trạng là người tội lỗi như sau.
Thứ nhất việc phân tích giúp chúng ta tái khám phá ra chiều kích liên bản vị của tội lỗi. Việc phân tích nguồn gốc của ý thức về lỗi lầm đã cho chúng ta thấy trên bình diện bản năng nó nảy sinh nơi đứa trẻ như là hậu qủa của một sự mất mát tình yêu, của sự khước từ tính hiếu chiến đối với gương mặt của người cha và người mẹ, với tâm tình của sự âu lo phát xuất từ đó. Cả khi còn ở trên bình diện vô thức, nó xuất hiện như là việc thất bại trong việc hiện thực một tương quan nhân bản, có tầm quan trọng sinh tử đến khiến cho con người đổ lỗi cho cá nhân.
Điều này nổi bật lên một cách rõ ràng hơn trên bình diện luân lý, khi người ta miêu tả lỗi lầm như sự co cụm của con người trong chính mình. Nó ngăn cản một sự thực hiện nhân bản tràn đầy, trong nghĩa nó giả thiết sự cởi mở cho cuộc đối thoại với tha nhân, và việc thừa nhận một người khác, như là đích điểm cuối cùng và hoàn toàn.
Trên bình diện tôn giáo, nơi đâu việc thừa nhận một người khác trở thành việc thừa nhận và hiệp thông trong tình yêu với ”Người Khàc” viết hoa, tức Thiên Chúa, thì tội lỗi, trong đường nét của sự mạc khải kinh thánh và của truyền thống thần học đích thật nhất, mang ý nghĩa của sự bẻ gẫy tương quan giao ước với Đấng đã yêu thương chúng ta trước, và là suối nguồn tình yêu, với Người chúng ta yêu thương các người khác là anh chị em của chúng ta.
Gần với các dữ kiện được cống hiến cho chúng ta bởi việc phân tích từ lỗi lầm, chứ không gần với một việc giải thích kinh thánh đúng đắn, và đặc hiệt với tâm thức tin mừng, chúng ta quen nhìn tội lỗi như là một sự vật, một cái máy bao gồm một sự trừng phạt, và phải được xóa bỏ qua các hình thức đền tội. Việc nhắc nhớ đến với chúng ta trong nghĩa của một ý niệm cá nhân một cách rõ ràng hơn, trong đó chúng ta phải cảm thấy mình có trách nhiệm cho tới cùng, như là các con người tự do. Chúng ta là những kẻ tội lỗi, bởi vì chúng ta vô ơn, trong việc khước từ ít nhiều hoàn toàn Tình Yêu, Thiên Chúa và tha nhân. Đó là bài học mà các Thánh đã để lại cho chúng ta. Ở đây tội lỗi được quan niệm trong tương quan của một giao ước tình yêu đối với Thiên Chúa, và qua đó cũng đối với tha nhân, là con cái Chúa như chúng ta. Phạm tội là phản bội giao ước tình yêu ấy, là bẻ gẫy giao ước, là khước từ Thiên Chúa và khước từ tha nhân; và vì thế là thất bại trong việc hiện thực cuộc sống ơn gọi là người và là con cái Chúa của mình. Phạm tội là thất bại, là không hiện thực được chính mình.
Thứ hai, phân tích tội lỗi cũng giúp chúng ta thắng vượt một quan niệm định mệnh về tội. Nhìn vào thực tại của tội lỗi trong các phạm trù duy cá nhân có nghĩa là khước từ một quan niệm định mệnh dẫn đưa con người tới sự sợ hãi hay thái độ chịu trận. Tội lỗi không phải là một thực tại xa lạ với con người, mà là chính con người, trong nghĩa nó cố ý có các lựa chọn sai lầm, mà nó phải có khả năng nhận lãnh trách nhiệm đối với các sai lầm và chịu đựng các hậu qủa của chúng. Thực tại này đã được đưa ra ánh sáng trên bình diện luân lý đạo đức, và cũng hiện diện trong suy tư kinh thánh nữa. Cả ”tội lỗi của thế giới” mà thánh Gioan nói tới, hay ”tội” mà thánh Phaolô nói tới, cũng không được hiểu trong nghĩa bản thể hóa sự dữ.
Việc thừa nhận sự tự do của con người trước sự dữ, mặc dù có các điều kiện hạn chế nó, nếu một đàng khiến cho trách nhiệm của kẻ có tội năng nề hơn, thì đàng khác nó giải thoát kẻ có tội khỏi sự sợ hãi. Thật thế, nếu sự dữ không phải là một định mệnh không thể tránh né được, nghĩa là như thể là một điều kiện kết án mà không ai có thể thoát được, nhưng là kết qủa của một sự lựa chọn không vĩnh viễn, thì chiều kích của niềm hy vọng vẫn rộng mở, và trên bình diện luân lý đạo đức nó được thực hiện trong sự hòa giải với chính mình và với tha nhân; và trên bình diện Kitô nó được cụ thể hóa trong lòng xót thương của Thiên Chúa và trong sự tha thứ của Người.
Thứ ba, phân tích tội lỗi giúp chúng ta thắng vượt được quan niệm duy luật lệ, để có thể giải thích một cách đúng đắn giá trị của luật lệ. Đặt để tội lỗi trong bối cảnh của sự tự do và tinh thần trách nhiệm của con người đối với chính mình, đối với tha nhân và đối với Thiên Chúa, có nghĩa là hiểu rằng nó không thể được định nghĩa một cách đơn sơ bởi sự đối chiếu với luật lệ, như một sự giáo dục nào đó đã khiến cho chúng ta tin như vậy.
Suy tư kinh thánh và thần học đã nhắc nhở cho chúng ta biết rằng cùng ý niệm về tội lỗi, được hiểu như là sự bất tuân phục, không được nhìn trong một nhãn quan duy luật lệ: sự bất tuân là bất vâng phục, nhất là trong tương quan với người là tác giả của nó, và trong tương quan với giá trị mà nó diễn tả. Trên bình diện bản năng, cần ghi nhận rằng khía cạnh tiêu cực của cái ”siêu tôi” như là việc cấm đoán không được tách rời khỏi khía cạnh tích cực của sự đồng hóa với gương mặt của người cha. Như thế không được lấy mất đi nội dung của luật lệ, nhưng phải nhìn nó trong viễn tượng đúng đắn: luật lệ không phải là một cứu cánh, vì thế nó không tuyệt đối, mà tương đối, tương đối với các giá trị tuyệt đối mà nó diễn tả, bằng cách dịch và diễn giải chúng, trong các tình trạng lịch sử cụ thể, và trong tình trạng cụ thể của cuộc sống con người.
Từ sự trung thành hầu như có tính cách tôn thờ ngẫu tượng đối với từng chữ trong luật lệ – luật của Thiên Chúa và luật tự nhiên – người ta bước sang sự trung thành với tinh thần của luật lệ, với mục đích thật sự của nó là dẫn đưa con người bước vào sự hiệp thông tràn đầy hơn với Thiên Chúa – trên bình diện thiêng liêng – và bước vào một sự hiện thực tràn đầy của chính con người mình – trên binh diện luân lý đạo đức.
Sự thiện và sự ác khi đó sẽ được đinh đoạt bởi hướng đi nền tảng của con người, rộng mở hay đóng kín đối với các giá trị này, như suy tư về sự lựa chọn nền tảng đã cho phép chúng ta nêu lên, một cách hạn chế trong môi trường, trong đó con người có thể đưa ra các lựa chọn thực sự tự do. Nói theo kiểu của thánh Gioan, thì đó là mở mắt ra để nhìn thấy ánh sáng, hay nhắm mắt lại đối với ánh sáng, và ở lại trong tối tăm. Thật là dễ hiểu rằng cho dù không rơi vào các quá đáng của giáo thuyết luân lý thay thế luật lệ với tình trạng một cách đơn thuần, chúng ta cần phải duyệt xét lại tâm thức duy luật lệ của nền luân lý truyền thống, cho rằng có thể lên danh sách và đưa ra các giải pháp tiền chế cho tất cả mọi tình trạng giả thiết, trong đó con người có thể rơi vào.
Ngoài ra, chúng ta cũng phải tố cáo lập trường của những người dựa trên một thước đo thuần túy ngoại tại và pháp lý, bị cám dỗ trông thấy con người bị chụp mũ trong tội trọng hầu như ở mỗi bước đi. Như vậy suy tư này phải dẫn đưa chúng ta tới một quan niệm thanh thản hơn, cả khi nó trách nhiệm hóa một cách manh mẽ đi nữa tương quan của chúng ta với Thiên Chúa. Kẻ tội lỗi là người khước từ Thiên Chúa và ý muốn yêu thương của Người, mà luật lệ giúp chúng ta hiểu biết.
Điểm thứ bốn là tội lỗi trong chiều kích của sự hy vọng. Kết luận quan trọng nhất mà chúng ta đạt tới từ các suy tư kể trên là kết luận của niềm hy vọng mở ra cho kẻ có tội. Từ quan điểm một cách chuyên biệt Kitô chúng ta có thể nói rằng nói về tội lỗi có ý nghĩa, bởi vì điều này dẫn đưa chúng ta tới chỗ đề cập tới việc hoán cải, sự tha thứ và lòng thương xót của Thiên Chúa Cha. Đó là điều chúng ta có thể khám phá ra từng bước trong mọi suy tư kinh thánh; và người ta cũng nhận ra trên bình diện bản năng và trên bình diện luận lý đạo đức, khi nói về giá trị tích cực của ý nghĩa tội lỗi, như là việc kích thích tái xây dựng những gì mà tội lỗi đã làm hư hỏng, đòi buộc việc tái thiết con người mình và sự gặp gỡ với các người khác, như là yếu tố nòng cốt của mọi thừa nhận và xưng thú lỗi lầm luân lý.
Đặc thái kinh nghiệm Kitô về tội lỗi là sự kiện chỉ khám phá ra sự tha thứ sau đó và bên trong ơn tha thứ đã nhận được từ Thiên chúa. Chính ý thức về tình yêu của Thiên chúa như là lòng thương xót và sự tha thứ như là hành động phải luôn đi trước và bao gồm sự biểu lộ tội lỗi và việc xưng thú nó từ phái kẻ có tội, trong cái năng động của nó.
Ngoài ra, đây là phương cách mà Chúa Giêsu đã dùng để tiếp cận những người tội lỗi, bằng cách cống hiến cho họ khả thể chữa lành và ơn cứu rỗi, mà không bắt đầu bằng một lời trách cứ tội lỗi của họ. Như thế nhận thức về tội lỗi không đè bẹp họ và không khiến cho họ bị hạ nhục, nhưng là suối nguồn trao ban niềm vui và sự tự do.
Quan điểm Kitô về tội lỗi đã được chỉ định bởi một lời tố cáo nó trong chính lúc cất nó đi: đó là sự tha thứ. Như thế vượt ngoài mọi quan điểm thuần túy nhân loai, tội lỗi xuất hiện trong tất cả sự đặc biệt của nó: nó khiến cho con người dấn thân cho sự hoán cải và cho mầu nhiệm lòng thương xót của Thiên Chúa, như là việc cống hiến phục hồi một cách liên tục được đề nghị với sự tự do của chúng ta, một sự tự do của các kẻ có tội ”để cho mình được hòa giải” với Thiên Chúa, với tha nhân và với chính mình (2 Cr 5,20).
(Thần Học Kinh Thánh bài số 1163)
Linh Tiến Khải
Nguồn: RV